Giáo dục thẩm mỹ: yếu tố bị bỏ quên trong chiến lược phát triển con người Việt Nam

Chia sẻ

Chia sẻ zalo Chia sẻ zalo Chia sẻ zalo Chia sẻ zalo

Giáo dục con người, theo GS.TS Trần Văn Đoàn, không thể chỉ dừng lại ở việc truyền đạt tri thức hay nâng cao thể lực, mà cần được đặt trên ba nền tảng song hành: thân thể, trí tuệ và cảm xúc. Từ thực tiễn giảng dạy và nghiên cứu tại nhiều quốc gia, ông chỉ ra rằng giáo dục thẩm mỹ, với vai trò trọng tâm là quản lý và định hướng cảm xúc, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng con người và văn hóa xã hội đang bị xem nhẹ tại Việt Nam.

Khoảng trống trong các chỉ số phát triển

Xuất phát từ đề dẫn văn hóa và con người trong bối cảnh “kỷ nguyên hội nhập vươn mình” được đặt ra tại hội thảo khoa học quốc tế HDV -2025 vừa qua, GS.TS Trần Văn Đoàn cho rằng sự phát triển của con người cần nhìn nhận đồng thời trên ba trên: phát triển thân thể, phát triển trí tuệ và phát triển cảm xúc.

Giáo dục thẩm mỹ: yếu tố bị bỏ quên trong chiến lược phát triển con người Việt Nam - 1GS.TS Trần Văn Đoàn phát biểu về vai trò của giáo dục thẩm mỹ tại hội thảo HDV 2025

Ở phương diện thân thể, Việt Nam đã đạt đượ nhiều tiến bộ đáng ghi nhận trong ba thập niên qua. Chiều cao trung bình của nam giới tăng từ khoảng 1m57 lên 1m62, của nữ giới từ 1m51,8 lên khoảng 1m53. Tuy nhiên, theo GS. Đoàn, mức tăng này vẫn còn khiêm tốn nếu so với Singapore và nhiều quốc gia trong khu vực.

Ở bình diện trí tuệ, chỉ số IQ trung bình của người Việt đạt khoảng 100, xếp thứ 27 thế giới. Nhưng đặt trong tương quan khu vực, Việt Nam vẫn đứng sau Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông hay Hàn Quốc, những quốc gia có chỉ số IQ trung bình từ 105 đến 107. Điều đó cho thấy, dù đã có tiến bộ, Việt Nam vẫn chưa bắt kịp các nước láng giềng về hai trụ cột thể chất và trí tuệ.

Dẫu vậy, sự khác biệt lớn nhất, theo GS. Trần Văn Đoàn, nằm ở trụ cột thứ ba: phát triển cảm xúc. Đây cũng chính là lĩnh vực ít được đo lường và ít được đầu tư nhất trong hệ thống giáo dục hiện nay. Ông nhận định:“Tại ba quốc gia có IQ cao là Trung Quốc, Nhật Bản và Đài Loan, nơi tôi đã làm việc trong thời gian dài, tôi thấy rõ một điểm chung: IQ cao lên là vì EQ cũng được nâng cao. Và nền tảng của việc đó chính là giáo dục thẩm mỹ.”

Giáo dục thẩm mỹ: không phải cảm cái đẹp, mà là quản lý cảm xúc

Từ nền tảng triết học, nhà giáo dục trên 50 năm giảng dạy chỉ ra rằng cách hiểu phổ biến hiện nay về thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ vẫn còn phiến diện. Thẩm mỹ thường được đồng nhất với triết học nghệ thuật, hay cái thuyết về những cái đẹp, cái hay theo chuẩn mực lý tưởng. “Từ thời Trung cổ đến nay, người ta thường dùng toán học, đặc biệt là hình học, để xác định cái đẹp,” ông phân tích. Theo cách tiếp cận này, cái đẹp gắn với sự “hoàn mỹ”, “cân đối”, “không thiếu sót”, một quan niệm lý tưởng, điển hình là các tiêu chí hình học trong các cuộc thi sắc đẹp.

Tuy nhiên, ông nhấn mạnh, cách tiếp cận đó chưa đủ để lý giải vai trò của thẩm mỹ đối với trí tuệ và sự phát triển con người. Bản chất của thẩm mỹ, theo ông, không nằm ở việc định nghĩa cái đẹp, mà ở cách con người đối diện cảm xúc của chính mình. Cảm xúc, theo GS. Đoàn, khởi nguồn từ cảm giác rồi dần chuyển hóa thành tình cảm, thứ tạo nên khuynh hướng chọn lựa, thái độ của con người với các vấn đề trong cuộc sống như tình yêu, ẩm thực, sắc đẹp. Do đó, giáo dục thẩm mỹ chính là quá trình giúp con người làm chủ cảm xúc tự nhiên, biến những cảm xúc bản năng thành tình cảm đúng hướng, đúng mục đích. Ông lấy ví dụ: con người sợ đi qua nghĩa địa vì sợ bóng đêm là phản ứng cảm xúc tự nhiên. Nhưng nếu biết cách giáo dục thẩm mỹ để cảm nhận được cái đẹp trong bóng tối, ta có thể khắc chế được nỗi sợ để đạt được mục tiêu cần thiết. Hay ví dụ như phở, 100 năm trước vốn là món ăn bình thường. Qua quá trình biến đổi thành đặc sản của Việt Nam, giáo dục về tinh túy của món ăn này, ta biến thành món ăn được cả thế giới công nhận, khen ngon. 

Cảm xúc: Nền tảng cho văn hóa xã hội

Từ cá nhân, GS. TS. Trần Văn Đoàn mở rộng vấn đề sang bình diện xã hội. Khi cảm xúc được chuyển hóa cảm giác thành tình cảm, nó tạo nên các quy ước chung, những cách biểu đạt thẩm mỹ được cộng đồng, dân tộc chấp nhận. Chính những biểu đạt thẩm mỹ chung từ các “cảm giác chung” đó hình thành nền tảng của văn hóa. “Văn học, luân lý, đạo đức,... chínhlà cái đẹp, ngôn ngữ, kỷ luật mà đất nước đó chấp nhận. Tất cả đều dựa trên thứ cảm giác chung, cảm tình chung mà Tiếng Anh gọi là "common sense”. Trông thấy ai mình có một cảm giác y hệt nhau như đáng thương, vui mừng thì... nó là cảm giác chung. Cảm giác chung đó là nền tảng của văn hóa. Bất cứ cái văn hóa cao hay thấp đều có những cảm giác chung. Nếu cảm xúc chung mang tính cao thượng, nhân văn, thì đó là văn hóa cao; nếu cảm xúc chỉ dừng ở mức bản năng, vật chất, thì văn hóa sẽ thấp.” – ông khẳng định.  Như vậy, giáo dục thẩm mỹ không còn là câu chuyện thuần túy của nghệ thuật, mà gắn trực tiếp với luân lý, đạo đức và trật tự xã hội. Khi giáo dục thẩm mỹ hiệu quả, cảm xúc cá nhân được dẫn dắt đúng hướng, góp phần hình thảnh nền tảng văn hóa, lương tri, trật tự cho xã hội.

Giáo dục âm nhạc: Con đường khả thi để bù đắp khoảng trống giáo dục thẩm mỹ

Từ kinh nghiệm quốc tế, GS. Trần Văn Đoàn cho rằng giáo dục âm nhạc là một hướng đi cụ thể, khả thi để thúc đẩy giáo dục thẩm mỹ tại Việt Nam, trước khi chờ đợi các chính sách vào cuộc cho sự thay đổi sâu rộng hơn. Ở các quốc gia có chỉ số IQ cao và nền văn minh nghệ thuật phát triển, giáo dục âm nhạc đều được chú trọng phát triển nghiêm túc. 

So sánh với Đài Loan, nền giáo dục thứ 17 toàn thế giới, nơi ông có nhiều năm giữ chức Trưởng khoa Triết học Đại học Quốc Gia Đài Loan, đứng đầu cả nước, ta thấy có một nghịch lý đáng suy ngẫm. Việt Nam với gần 100 triệu dân và khoảng 300 trường đại học, học viện, nhưng chỉ có ba học viện âm nhạc đặt tại Hà Nội, Huế và TP.HCM, với quy mô đào tạo hạn chế. Trong khi đó, tại Đài Loan, dân số chỉ khoảng 23 triệu người nhưng có gần 30 học viện và viện âm nhạc. Đặc biệt, hầu hết các trường đại học tư thục và sư phạm đều có khoa âm nhạc, cùng hàng chục dàn nhạc giao hưởng hoạt động thường xuyên. Theo chuyên gia triết học này, Đài Loan, Singapore hay Trung Quốc vài chục năm trước cũng có xuất phát điểm tương tự Việt Nam. Điểm chung giúp họ bứt phá là sự chú trọng giáo dục âm nhạc, chứ không phải giáo dục về đào tạo trước. 

Giáo dục thẩm mỹ: yếu tố bị bỏ quên trong chiến lược phát triển con người Việt Nam - 2Giáo dục âm nhạc phổ biến trong chương trình đào tạo tại Đài Loan, từ cấp tiểu học 

(Ảnh: Đại học Quốc Gia Đài Loan) 

Mặt khác, gout thưởng thức âm nhạc nước ta còn khá dễ dãi. GS. Trần Văn Đoàn thẳng thắn cho rằng nhiều thể loại âm nhạc phổ biến ở Việt Nam hiện nay chủ yếu dừng ở việc biểu đạt cảm xúc tức thời, thiếu chiều sâu kỹ thuật và sáng tạo, dẫn đến thiếu khả năng diễn đạt cảm xúc đến mức thăng hoa. Ông cho biết: “Ở các nước có nền âm nhạc cổ điển phát triển như phương Tây, để chơi violin ở trình độ cao cần ít nhất 10–15 năm luyện tập, mỗi ngày từ 4–5 giờ, đòi hỏi kỷ luật nghiêm ngặt và sự tập trung cao độ để tạo nên nền tảng kỹ thuật.” Yếu tố này góp phần tạo ra nhân tài kiệt xuất như Bach hay Beethoven, mang đến kiệt tác âm nhạc đa giá trị với thế giới, có tính thăng hoa và tác động sâu rộng hơn, đến cả tầng lớp tinh hoa. “Nhiều thiên tài như Einstein hay Newton đều chơi nhạc cụ. Việc thực hành âm nhạc buộc con người phải đối diện với sai sót, với phản hồi trực tiếp từ người nghe, từ đó rèn luyện khả năng điều chỉnh cảm xúc và hoàn thiện bản thân.” – vị giáo sư bổ sung thêm. 

Giáo dục thẩm mỹ: yếu tố bị bỏ quên trong chiến lược phát triển con người Việt Nam - 3

Nhiều nghiên cứu chỉ ra vai trò của giáo dục âm nhạc trong việc cải thiện kỹ năng mềm, tăng khả năng thành công của cá nhân và xây dựng giá trị xã hội tốt đẹp  

(Ảnh: Borgen Magazine) 

Thông qua giáo dục âm nhạc, ông chỉ ra giáo dục thẩm mỹ nói chung tập trung giá trị căn bản của con người là cảm xúc và khuyến khích con người đối diện cảm xúc để tạo ra sự phát triển cần thiết, khai phóng giá trị bản thân. Đây chính là hai hạn chế lớn của giáo dục Việt Nam được ông thẳng thắn phê bình. Thứ nhất là cách quản lý cảm xúc bằng cấm đoán, né tránh thay vì nuôi dưỡng và đối diện. Đơn cử như việc bị phê bình khiến con người dễ giận dữ. Thay vì học cách kiềm chế cảm xúc giận dữ, nhiều người cấm không được nói, phạt không được nói. Hay nếu qua nghĩa địa sợ thì sẽ làm gia tăng nỗi sợ, hoặc khuyên, cấm không đi. Tương tự, khi lên lớp, giáo viên đặt câu hỏi sinh viên Việt Nam phần lớn không giơ tay. Họ trốn tránh cảm xúc, thay vì đương đầu như sinh viên ở Mỹ hay Đài Loan. Thứ 2, việc các trường đại học chạy theo các xu hướng ngắn hạn như AI muốn lập ra các lớp về AI chứ không phải mở một khoa âm nhạc. Phần lớn chỉ để ý trí tuệ mà quên rằng một nền giáo dục toàn diện, như phát biểu của Tổng bí thư Tô Lâm, cần bắt đầu từ giáo dục căn bản, giáo dục cảm xúc, giáo dục thẩm mỹ.” 

Giáo dục thẩm mỹ: yếu tố bị bỏ quên trong chiến lược phát triển con người Việt Nam - 4

 Giáo dục Việt Nam còn bị chạy theo xu hướng. Sự đổ bộ chóng mặt của các chương trình đào tạo AI tỉ lệ nghịch với chất lượng lĩnh vực giáo dục thẩm mỹ. 

 (Ảnh: Học viện Marketing Online) 

Những phát biểu của GS.TS Đoàn đã nhận được sự đồng tình và gợi mở nhiều trao đổi tại hội thảo. TS. Bùi Bình Thế, Viện trưởng Viện Chất lượng Quản lý khi ông liên hệ sự thiếu hụt giáo dục thẩm mỹ với các vấn nạn xã hội như hàng giả, tham nhũng, coi đó là hệ quả của việc không biết quản lý ham muốn cá nhân. TS. Nguyễn Văn Dũng, Đại học Hùng Vương Tp.HCM nêu lên thách thức và vai trò của giáo dục thẩm mỹ trong bối cảnh sự phát triển của mạng xã hội, nơi cảm xúc bị kích thích mạnh nhưng thiếu khả năng tự kiểm soát và phân biệt đúng – sai.

Trong bối cảnh đó, GS.TS Trần Văn Đoàn đề xuất các trường đại học, trong đó có Đại học Hùng Vương TP.HCM, cân nhắc một hướng đi “ngược dòng”: đầu tư cho các lĩnh vực giáo dục căn bản như âm nhạc, nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học sức khỏe, những lĩnh vực trực tiếp nuôi dưỡng con người toàn diện, song hành với phát triển trí tuệ và thể chất.

Bước vào kỷ nguyên vươn mình của Việt Nam, giáo dục thẩm mỹ cần được đặt đúng vị trí để giáo dục phát triển theo hướng toàn diện, con người phát triển bài bản với hạt giống cảm xúc được “gieo trồng” đúng hướng. Từ nền tảng đó, năng lực đổi mới sáng tạo được khơi mở, tầm vóc văn hóa được nâng cao, góp phần tạo dựng cơ sở bền vững cho sự phát triển quốc gia.

Chia sẻ

Chia sẻ zalo Chia sẻ zalo Chia sẻ zalo Chia sẻ zalo

Uyên Bùi

CLIP HOT