Quảng Ninh – mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, lịch sử từ miền núi đến miền biển, từ phong trào cách mạng công nhân vùng mỏ đến khát vọng sáng tạo, cống hiến trong kỷ nguyên vươn mình cùng dân tộc.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn“Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, ngay sau khi thành lập (năm 1930) và bắt đầu lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định “văn hóa là một mặt trận quan trọng”; “là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước”.
Quảng Ninh - vùng đất hội tụ và giao thoa của nhiều giá trị văn hóa đặc trưng: văn hóa biển, văn hóa Phật giáo Trúc Lâm, văn hóa công nhân mỏ, cùng bản sắc đa dạng của các dân tộc thiểu số. Đây cũng là nơi lưu giữ dấu tích của ba nền văn hóa tiền sử Soi Nhụ, Cái Bèo, Hạ Long.
Quảng Ninh nơi hội tụ các nền văn hóa, trong đó có nền văn hóa của người dân vùng biển với những làng chài cổ vang lên những câu hò biển.
Kế thừa những giá trị ấy và truyền thống anh hùng bất khuất của vùng mỏ, trong 80 năm qua, ngành Văn hóa - Thể thao - Du lịch đã trưởng thành vượt bậc, trở thành trụ cột trong đời sống xã hội, góp phần đưa Quảng Ninh vươn lên nhóm địa phương phát triển năng động hàng đầu cả nước.
80 năm Ngành Văn hóa Quảng Ninh đồng hành cùng dân tộc
Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong muôn vàn khó khăn của buổi đầu dựng nước, Ty Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Yên (tiền thân của Quảng Ninh ngày nay) đã ra đời; là một trong những thiết chế văn hóa đầu tiên của cả nước, mang sứ mệnh truyền bá ánh sáng cách mạng, hun đúc tinh thần kháng chiến và kiến quốc.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, cơ quan văn hóa của tỉnh liên tục kiện toàn: từ Ty Văn hóa - Thông tin, đến Sở Văn hóa - Thông tin, rồi hợp nhất thành Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch năm 2008; đến năm 2016, tỉnh tách thành hai sở: Sở Văn hóa và Thể thao cùng Sở Du lịch. Mới đây, từ tháng 3/2025, hai sở lại sáp nhập thành mái nhà chung Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Trên nền tảng lịch sử lâu đời và truyền thống văn hóa cách mạng, văn học – nghệ thuật Quảng Ninh đã phát triển mạnh mẽ, trở thành mảnh đất nuôi dưỡng nhiều tài năng lớn. Năm 1969, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh ra đời, quy tụ hàng trăm văn nghệ sĩ ở chín chuyên ngành. Trải qua 50 năm xây dựng và trưởng thành, Đội ngũ văn nghệ sĩ Quảng Ninh đã tăng về số lượng và phát triển về chất lượng, với gần 600 hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh ở 9 chuyên ngành và hơn 1.000 hội viên tại 12 Hội Văn học Nghệ thuật các địa phương.
Từ trang sách đến sân khấu, từ lời thơ đến tiếng hát, nghệ thuật Quảng Ninh luôn cháy sáng bằng đam mê và cống hiến. Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đã để lại những dấu ấn rực rỡ trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Trên các sân khấu khu vực và toàn quốc, tên tuổi Đoàn Chèo, Đoàn Kịch, Đoàn Cải lương của tỉnh đã trở nên quen thuộc, gắn với những vở diễn gây tiếng vang lớn, trở thành “tài sản tinh thần” không chỉ của nhân dân vùng mỏ mà còn của khán giả cả nước.
Ngành văn hóa Quảng Ninh trong 80 năm qua ghi nhận được nhiều dấu ấn
Song hành với sáng tạo nghệ thuật, Quảng Ninh còn là miền đất di sản, nơi lưu giữ và tỏa sáng những giá trị văn hóa ngàn năm. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống được phục dựng và lan tỏa: hát Soóng cọ của người Sán Chỉ, Then - đàn tính của người Tày Bình Liêu, cấp sắc của người Dao, lễ Đại phan của người Sán Dìu, lễ cầu mùa của người Sán Chỉ… Đặc biệt, Thực hành Then Tày, Nùng, Thái – trong đó có hát then đàn tính Bình Liêu – đã được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Đến nay, tỉnh Quảng Ninh có 02 di sản thế giới, di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, di sản văn hóa thế giới Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử, 641 di tích, 8 di tích quốc gia đặc biệt, 56 di tích quốc gia, 101 di tích cấp tỉnh; cùng 362 di sản văn hóa phi vật thể, 19 di sản cấp quốc gia và 2 di sản nhân loại. Cùng với đó là đội ngũ cán bộ văn hóa tâm huyết, có bề dày kinh nghiệm công tác và sự tham gia tích cực của cộng đồng, người dân giúp công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản ngày càng được chú trọng. Quảng Ninh cũng có 13 bảo vật quốc gia, 2 Nghệ nhân nhân dân, 36 Nghệ nhân ưu tú và 59 Nghệ nhân dân gian đã mở ra cơ hội lớn để Quảng Ninh trở thành trung tâm phát triển văn hóa, du lịch trọng điểm.
Phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng phát triển mạnh với hơn 1.600 câu lạc bộ, 30.000 hội viên, từ hát chèo, hát then – đàn tính, hát cửa đình đến các liên hoan, hội diễn thường niên như: Ngày hội Văn hóa các dân tộc, Liên hoan tiếng hát khu dân cư, Hát cho công nhân nghe... Tất cả đã làm phong phú đời sống tinh thần và gắn kết cộng đồng. Cùng với đó, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cũng được đầu tư đồng bộ, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, sáng tạo và nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Trong kỷ nguyên hội nhập, công nghiệp văn hóa được tỉnh định hướng là ngành kinh tế mới. Dựa trên thế mạnh di sản, thiên nhiên và văn hóa, tỉnh đã hình thành bốn vùng du lịch trọng điểm: Hạ Long, Đông Triều – Uông Bí – Quảng Yên, Vân Đồn – Cô Tô và Móng Cái, với những sản phẩm đặc sắc: du lịch biển đảo, du lịch văn hóa – tâm linh, du lịch cộng đồng – sinh thái, du lịch biên giới. Hiện toàn tỉnh có 01 khu du lịch quốc gia, 05 khu du lịch cấp tỉnh và 80 điểm du lịch.
Từ năm 2020 đến nay, hàng nghìn thủ tục hành chính trong lĩnh vực biểu diễn và quảng cáo được giải quyết, cho thấy môi trường đầu tư cởi mở, chuyên nghiệp. Tất cả tạo thành một chuỗi sự kiện – sản phẩm văn hóa đa dạng, khẳng định tầm nhìn mới của Quảng Ninh: lấy công nghiệp văn hóa làm động lực phát triển du lịch, lan tỏa thương hiệu vùng đất di sản ra thế giới.
5 mục tiêu trọng tâm của ngành văn hóa trong kỷ nguyên mới
Ông Nguyễn Việt Dũng, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh, chia sẻ trong thời gian tới, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm chủ yếu:
Một là, Triển khai sáng tạo và hiệu quả Kết luận số 156-KL/TW ngày 21/5/2025 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; các nghị quyết, chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa; Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, gắn với triển khai Nghị quyết số 17,… nhằm khơi thông nguồn lực, thực hiện các đột phá trong phát triển kinh tế xã hội.
Việc UNESCO công nhận Quần thể Di tích và Danh thắng Yên Tử trở thành Di sản văn hóa thế giới mở ra nhiều không gian cho Quảng Ninh phát triển văn hóa thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Hai là, Tập trung bảo tồn, khai thác hiệu quả các di sản, trọng tâm là 2 Di sản thế giới Yên Tử, Vịnh Hạ Long, 16 di tích quốc gia, quốc gia đặc biệt; quan tâm công tác quy hoạch; Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ văn hóa, quản lý chặt chẽ công tác bảo tồn, giữ gìn các giá trị di sản văn hóa; xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp để người dân có ý thức, trách nhiệm, nghĩa vụ chung tay bảo tồn các di tích văn hóa. Hướng tới xây dựng Vịnh Cửa Lục trở thành “viên ngọc Bích tỏa sáng” và phát triển vịnh Hạ Long trở thành “Vịnh sáng tạo”, góp phần bảo tồn, nâng cao giá trị Di sản - Kỳ quan thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long; Di sản văn hóa thế giới của quần thể Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc; phát triển du lịch khu vực vịnh Bái Tử Long, khu du lịch quốc gia Trà Cổ; xây dựng Vân Đồn - Cô Tô thành khu du lịch hàng đầu quốc gia.
Ba là, Tiếp tục tổ chức và đăng cai các sự kiện quốc gia và quốc tế để Quảng Ninh trở thành điểm đến, thu hút khách du lịch; trong đó xây dựng thương hiệu Carnaval trở thành lễ hội của người dân, du khách; đăng cai Liên hoan phim, Liên hoan Xiếc quốc tế trở thành sản phẩm văn hóa, du lịch thường niên… Từng bước xây dựng Quảng Ninh trở thành trung tâm văn hóa nghệ thuật cấp vùng; điểm đến hấp dẫn hàng đầu về du lịch di sản, văn hóa khu vực châu Á và thế giới.
Bốn là, Quan tâm phát triển nhân lực du lịch, văn hóa chất lượng cao; rà soát chuẩn hóa và trẻ hóa đội ngũ cán bộ ngành văn hóa từ cấp xã đến tỉnh đảm bảo đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới; cán bộ phải hiểu sâu về văn hóa, am hiểu lịch sử địa phương, giỏi ngoại ngữ và ứng dụng hiệu chuyển đổi số.
Năm là, Thúc đẩy chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong xây dựng, phát triển, quản lý văn hóa; khẩn trương hoàn thành cơ sở dữ liệu số văn hóa, nhất là số hóa các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, di sản văn hóa phi vật thể đã được xếp hạng, số hóa Bảo tàng tỉnh, Thư viện tỉnh, bảo tàng ảo. Ứng dụng AI, VR trong trải nghiệm các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể.
Văn hóa Quảng Ninh như nguồn lực và động lực phát triển, lan tỏa giá trị lịch sử cùng dân tộc bước vào kỷ nguyên mới.
Trong khí thế hân hoan, tự hào của toàn dân tộc hướng về kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2/9 và 80 năm Ngày truyền thống ngành Văn hóa, chúng ta càng cảm nhận rõ hơn nguồn sức mạnh tinh thần vô giá thôi thúc mỗi người tiếp nối truyền thống, chung sức xây dựng và phát triển đất nước.
Việc xây dựng một nền văn hóa giàu bản sắc, phát triển kinh tế di sản, công nghiệp văn hóa, đưa Quảng Ninh trở thành tỉnh kiểu mẫu, giàu đẹp, văn minh, hiện đại không chỉ là nhiệm vụ chính trị trọng tâm mà còn mang ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển bền vững.
Nền văn hóa đặc sắc Quảng Ninh cần được khẳng định như một sức mạnh nội sinh, một nguồn lực và động lực phát triển, tiếp tục bồi đắp, lan tỏa giá trị lịch sử và truyền thống quý báu của dân tộc, để cùng nhau bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc.