Một số hàm ý đề xuất về vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước để người nông dân làm du lịch nông nghiệp hiệu quả tại Bến Tre
Cơ quan quản lý Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp,... cần tham gia hỗ trợ để người nông dân làm du lịch nông nghiệp hiệu quả trong bối cảnh mới hiện nay.
Để người nông dân làm du lịch nông nghiệp có hiệu quả rất cần sự liên kết, hợp tác, hỗ trợ của nhiều bên liên quan, đặc biệt là có vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp, hội/hiệp hội...
Trong mối quan hệ này, người nông dân đóng vai trò là chủ thể chính, tuy nhiên, cơ quan quản lý Nhà nước lại đóng vai trò rất quan trọng, biểu hiện dưới nhiều góc độ: ban hành cơ chế chính sách, quy hoạch, hỗ trợ về vốn, liên kết – hợp tác phát triển… Trong nghiên cứu này, tác giả nhấn mạnh vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước để người nông dân làm du lịch nông nghiệp có hiệu quả tại Bến Tre.
Tạp chí Du lịch TP.HCM xin được giới thiệu và đăng tải toàn văn bài nghiên cứu của nhóm tác giả.
1. Vai trò người nông dân làm du lịch nông nghiệp tại Bến Tre
Du lịch Bến Tre thời gian qua có sự phát triển khá tốt trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung, trong đó, nhiều sản phẩm/dịch vụ đang được cung ứng bởi người nông dân. Đây cũng là lực lượng tham gia vào phát triển các loại hình du lịch: nông nghiệp, sinh thái, rừng ngập mặn, tâm linh… Tuy nhiên, vẫn còn đó rất nhiều rào cản, trở ngại, thách thức để người nông dân làm du lịch nông nghiệp có hiệu quả.
1.1. Thuận lợi
Du lịch Bến Tre thời gian gần đây đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Báo cáo tình hình hoạt động du lịch năm 2019 và phương hướng nhiệm vụ năm 2020 của Sở Văn hoá – Thể Thao và Du lịch tỉnh Bến Tre cho thấy, tỉnh đã đón và phục vụ cho gần 1,9 triệu lượt khác trong năm 2019, tăng 20% so với cùng kỳ. Tổng thu từ du lịch ước đạt xấp xỉ gần 1.800 tỷ đồng, tăng 35% so với cùng kỳ (năm 2020, 2021, tác giả không thống kê do ảnh hưởng của dịch COVID-19).
Xuất phát từ thực tiễn và hiệu quả của các mô hình phát triển du lịch, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ X, nhiệm kỳ 2020 – 2025 xác định: “Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, tập trung hai mũi nhọn là kinh tế vườn và kinh tế biển”.
Trong Chương trình hành động (số 22CTr/TU) của Tỉnh ủy Bến Tre về thực hiện Nghị quyết (số 08-NQ/TW) của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn cũng đã nêu rõ: “Phát triển mạnh du lịch Bến Tre gắn với xuất khẩu hàng nông sản tại chỗ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng [7, tr.2]. Phấn đấu đến năm 2030, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, với giá trị tăng thêm của ngành du lịch chiếm 8 – 10%/GRDP của tỉnh” [7, tr.1].
Về vị trí, vai trò của của các thành phần, trong đó có lực lượng nông dân trong phát triển du lịch, Chương trình hành động của Tỉnh ủy Bến Tre cũng khẳng định: “Khuyến khích các thành phần kinh tế, cộng đồng dân cư, hoạt động nông nghiệp, hoạt động sinh kế khác hướng đến phục vụ du lịch và tham gia phát triển du lịch. Quan tâm phát triển du lịch cộng đồng, có chính sách hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng, nâng cao vai trò của cộng đồng, xây dựng cộng đồng dân cư trong phát triển du lịch vừa văn minh vừa thân thiện; tạo điều kiện thuận lợi để người dân trực tiếp tham gia kinh doanh du lịch, hưởng lợi từ du lịch. Thực hiện tốt quy tắc ứng xử văn minh trong du lịch, nhằm xây dựng thương hiệu du lịch Bến Tre” [7, tr.3].
Về chính sách hỗ trợ lực lượng nông dân tham gia phát triển du lịch nông nghiệp, HĐND tỉnh Bến Tre đã ban hành Nghị quyết số 12/2019-NQ/HĐND, ngày 3/7/2019 quy định một số chính sách hỗ trợ kinh phí, khuyến khích phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Bên cạnh đó, còn rất nhiều kế hoạch, chương trình khác có nội dung điều chỉnh liên quan đến vị trí, vai trò của người nông dân trong việc xây dựng, phát triển du lịch nông nghiệp tại địa phương, về: đào tạo, tập huấn kiến thức, kỹ năng làm du lịch, bảo đảm vệ sinh thực phẩm, an toàn lao động…
Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của Bến Tre cho thấy, những lợi ích mà du lịch nông nghiệp mang lại là rất lớn. Khảo sát do Nhóm nghiên cứu đề tài Nông dân làm du lịch ở Bến Tre, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành (2020) cũng khẳng định điều này: Du lịch nông nghiệp giúp khách hiểu rõ hơn về giá trị nông nghiệp và văn hóa nông thôn, chiếm tới 21% trong tổng số ý kiến được hỏi. Đồng thời, giúp quảng bá sản phẩm, nông sản của địa phương cũng chiếm gần 27%, tăng thu nhập cho người nông dân là trên 19%. Rồi du lịch còn tạo ra cơ hội phát triển kinh tế, lan tỏa trong cộng đồng như: ăn, ở, lưu trú, mua sắm… chiếm trên 15%, hay tạo nguồn lực tài chính và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, chiếm trên 13%.
Về đánh giá vai trò người nông dân trong hoạt động du lịch nông nghiệp tại Bến Tre hiện nay, 36% các công ty du lịch cho rằng là quan trọng và gần 60% cho rằng người nông dân đóng vai trò làm cầu nối để phát triển du lịch của địa phương.
Hơn nữa, chính người nông dân đang triển khai các mô hình tại Bến Tre cho thấy (dù khảo sát thực hiện khi dịch COVID-19 đã xảy ra), tham gia hoạt động du lịch nông nghiệp đang triển khai đã mang lại lợi nhuận, dù tình hình khó khăn chung. Trong đó, số người trả lời có lợi nhuận cao chiếm tỉ lệ đến 47% và có ít lợi nhuận cũng đạt 48,5%. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp, do cơ bản người nông dân chủ yếu làm vườn (71% số hộ trả lời) và chăn nuôi (31,4% số hộ trả lời), như biểu đồ dưới đây:
Cũng theo Khảo sát nêu trên, khi nông dân làm du lịch nông nghiệp có nhiều thuận lợi, như có diện tích, vườn cây (gần 28%), do địa phương hỗ trợ (gần 26%), có giao thông thuận tiện (19%)... cùng nhiều nguyên nhân khác.
Về phần khách du lịch, khi trải nghiệm du lịch nông nghiệp cũng đánh giá tốt. Trong số những ý kiến được hỏi, có tới trên 30% rất thích và 53% trả lời là thích. Khách du lịch cũng cho rằng, loại hình du lịch nông nghiệp có mức chi phí hợp lý (87%). Hiện nay, dịch vụ phục vụ tại các điểm du lịch nông nghiệp ở Bến Tre được khách đánh giá rất tốt (24%), tốt (62,7%).
Đối với các biện pháp đảm bảo an toàn cho du khách khi tham gia du lịch nông nghiệp, hiện chính quyền cũng đã tổ chức thực hiện tương đối tốt. Đồng thời, các điểm du lịch được khách du lịch đánh giá là sạch sẽ, vệ sinh (93%). Song song đó, tình trạng ăn xin, bán hàng rong, chèo kéo khách hầu như rất ít xuất hiện trên địa bàn Bến Tre.
1.2. Khó khăn
Dù tỉnh Bến Tre đã có nhiều Nghị quyết, Chương trình hành động, kế hoạch… để hỗ trợ, đồng hành cùng người nông dân trong việc phát triển du lịch nông nghiệp, tuy nhiên, còn đó rất nhiều rào cản, trở ngại, thách thức.
Điển hình nhất là thiếu sự “chung tay” của cả hệ thống chính trị, nhất là nhiều cơ quan quản lý Nhà nước chưa hỗ trợ, đồng hành để cùng với nông dân làm du lịch: vừa là hỗ trợ về cơ chế - chính sách, quy hoạch, vốn, các công cụ - kỹ năng để phát triển du lịch nông nghiệp thời công nghệ số (rõ nét nhất là trong công tác quảng bá, xúc tiến, giới thiệu điểm đến).
Bên cạnh đó, nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển kinh tế du lịch trong sự phát triển kinh tế - xã hội của cả hệ thống chính trị ở Bến Tre đã được nâng lên, tuy nhiên, vẫn chưa đồng bộ, thiếu tính toàn diện. Từ đó, nhiều quyết sách vẫn chưa được ban hành kịp thời, nhất là công tác quy hoạch – dự báo. Vì vậy, người nông dân tham gia xây dựng, phát triển du lịch nông nghiệp chưa theo lộ trình nhất định, dẫn tới có nơi tổ chức thực hiện, phát triển ồ ạt, khó thể kiểm soát và không hiệu quả. Trong khi, một số địa phương khác có điều kiện nhưng chưa thể triển khai các mô hình.
Bến Tre đã tham gia vào nhiều hoạt động liên kết, hợp tác trong nước và quốc tế, tuy nhiên, phần lớn người nông dân vẫn đang đứng ngoài trong bối cảnh này. Đa phần, họ đang phụ thuộc vào các công ty lữ hành/nhà tổ chức du lịch, đơn vị phân phối sản phẩm nông sản, vật nuôi… chủ yếu là khu vực TP.HCM và một số trung tâm lớn, như: Đà Nẵng, Hà Nội.
Hiện địa phương cũng đã và đang triển khai nhiều mô hình phát tiển du lịch nông nghiệp, tuy nhiên, vai trò của cơ quản lý Nhà nước tại các huyện/thị/thành phố… là chưa rõ, còn mờ nhạt, thậm chí chồng chéo. Trong đó, chưa chỉ rõ được trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác chỉ đạo, điều hành tại địa phương về phát triển loại hình du lịch nông nghiệp mà người nông dân đang triển khai trên thực địa. Từ đó, dẫn tới hệ quả là còn những vướng mắc, sự tắc nghẽn trong quá trình tổ chức thực hiện.
Thực tiễn cho thấy, còn đó rất nhiều khó khăn đề người nông dân làm du lịch nông nghiệp, chủ yếu do thiếu vốn (31%), thiếu kỹ năng tay nghề (24%), chưa liên kết tốt (12%), thiếu hỗ trợ từ chính quyền (12%)… Đây là ý kiến của chính những người nông dân đang tổ chức thực hiện các mô hình du lịch nông nghiệp tại Bến Tre thông qua nghiên cứu đề tài Nông dân làm du lịch ở Bến Tre của Trường Đại học Nguyễn Tất Thành (2020). Đặc biệt, một trong những vấn đề mà người nông dân đang quan tâm và lo lắng nhất chính là tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống. Có tới gần 60% người dân được khảo sát cho rằng, biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng từ mức độ nhiều đến nghiêm trọng trong sản xuất và đời sống.
Mặt khác, dù số lượng người dân chủ yếu làm vườn nhưng qua khảo sát, có tới trên 39% trả lời chưa làm du lịch ngày nào trong năm. Số người dân làm được từ 10 đến 355 ngày/năm cũng chiếm rất ít, dao động từ 1,2% đến 6%. Có thể thấy rằng, số ngày mà người nông dân có thể khai thác du lịch trên địa bàn là còn rất ít. Thêm vào đó, người dân vẫn chưa được khuyến khích từ chính quyền địa phương trong tham gia, phát triển du lịch. Họ cho biết, thông tin về du lịch có được chủ yếu là từ Internet, sau đó là báo chí, người thân và chính quyền, đoàn thể. Còn khi tham gia xây dựng, phát triển các sản phẩm/dịch vụ du lịch nông nghiệp chủ yếu do bạn bè và tự làm (60%). Sự giúp đỡ của chính quyền (22%) và công ty lữ hành (18%) rất hạn chế.
2. Một số hàm ý đề xuất về vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước để người nông dân làm du lịch nông nghiệp hiệu quả tại Bến Tre
Một trong những ưu tiên hàng đầu, tác giả cho rằng, đó chính là cần có sự vào cuộc quyết liệt, mạnh mẽ của các cơ quan quản lý Nhà nước. Thực tế cho thấy, địa phương nào có sự quan tâm, chỉ đạo và đồng hành của cơ quan quản lý Nhà nước thì ở đó, có sự khác biệt: Người nông dân tham gia xây dựng, phát triển du lịch nông nghiệp gắn với dịch vụ, chuỗi liên kết phát triển các sản phẩm/dịch vụ rất tốt và đạt hiệu quả cao.
2.1. Về công tác quy hoạch - dự báo
Công tác quy hoạch - dự báo có thể xem là chìa khoá để “mở cánh cửa” cho người nông dân làm du lịch nông nghiệp chuyên nghiệp, bài bản hướng đến sự bền vững. Trong công tác quy hoạch - dự báo thì phải cho thấy được ở khu vực nào, làm cái gì?. Ví như ở khu vực huyện Thạnh Phú có biển, phải gắn với các hoạt động biển và một số đặc sản ở đây, như: cua, xoài, các loại khô… cùng với hệ sinh thái rừng ngập mặn, từ đó có thể tạo ra các giá trị sản phẩm riêng biệt cho khu vực này. Hay ở Chợ Lách, cần phát triển các sản phẩm/dịch vụ gắn liền với làng hoa và bản sắc văn hóa tại khu vực đó….
Tác giả cho rằng, cần có quy hoạch một không gian quy mô lớn và có một nhà đầu tư chiến lược/khu vực (như khu vực Thạnh Phú, Chợ Lách, Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc phải có một nhà đầu tư chiến lược) để phát triển khu vực nêu trên, trong đó có tính đến việc “bao sân” cho người nông dân. Có làm được như vậy: vừa giúp cho người nông dân tạo ra sản phẩm/dịch vụ nông nghiệp đặc thù, đồng thời, vừa có sự khác biệt để phát triển du lịch đối với các địa phương trong tỉnh cũng như của Bến Tre so với các tỉnh ở khu vực lân cận, như: Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh…
Mặt khác công tác dự báo sẽ giúp cho người nông dân biết được phương hướng để triển khai và thấy được tương lai của sản phẩm/dịch vụ cung ứng cho thị trường, cho khách du lịch. Thực tế, nhóm nghiên cứu đề tài Nông dân làm du lịch ở Bến Tre của Trường Đại học Nguyễn Tất Thành (2020) khi khảo sát, người nông dân cũng cho biết, rất cần sự hỗ trợ của chính quyền khi làm du lịch, chủ yếu quy hoạch - định hướng (gần 35% lựa chọn). Do đó, khi được hỏi những kiến nghị để phát triển du lịch, người nông dân cũng cho rằng, cần có sự vào cuộc của chính quyền, đoàn thể hỗ trợ (gần 40% lựa chọn).
Còn các doanh nghiệp du lịch thường đưa khách đến Bến Tre được khảo sát cũng cho rằng, cần có chính sách khuyến khích phát triển du lịch từ cơ quan chức năng (30%), cơ quan quản lý cũng đóng vai trò là cầu nối liên kết để phát triển du lịch nông nghiệp (20%), phải có quy hoạch định hướng phát triển (20%).
Đối với các huyện/thị/thành phố phải chủ động tham mưu cho lãnh đạo tỉnh các quyết sách, hiến kế trong công tác quy hoạch, đặc biệt là về xây dựng sản phẩm/dịch vụ riêng, có sự khác biệt của địa phương. Song song đó, chủ động mời các chuyên gia, nhà khoa học, các doanh nghiệp… cùng thảo luận, tư vấn để kiến nghị với lãnh đạo tỉnh nhằm thực hiện tốt công tác dự báo về thị trường hàng hoá/dịch vụ trong hoạt động du lịch nông nghiệp tại địa phương.
Khi có quy hoạch – dự báo tốt, được phê duyệt và triển khai, các ngành, huyện/thị/thành phố phải tổ chức thực hiện quyết liệt. Đồng thời, chỉ đạo các đơn vị cơ sở (phòng ban, phường/xã/thị trấn…) cùng tham gia đồng hành, hỗ trợ người nông dân. Có như vậy mới tránh được tình trạng chồng chéo, trên “nóng dưới nguội”, tạo nên sự thống nhất, đồng thuận trong triển khai thực hiện.
2.2. Về mời gọi – thu hút nhà đầu tư chiến lược
Việc mời gọi – thu hút đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu lớn/nhà đầu tư chiến lược[a] đối với Bến Tre hiện nay đang là một bài toán hết sức khó giải. Thực tế, hiện nhiều địa phương khác đang có các điều kiện tốt hơn để thu hút, hấp dẫn các nhà đầu tư lớn/nhà đầu tư chiến lược, trong đó, có du lịch nông nghiệp.
Tại Bến Tre chưa có các nhà đầu tư lớn/nhà đầu tư chiến lược về du lịch/dịch vụ, kể cả trong nước và quốc tế hiện diện tại đây. Vì vậy, từ thực hiện công tác quy hoạch, dự báo nêu trên, rất cần sự năng động, sự quyết tâm của lãnh đạo tỉnh, đặc biệt là người đứng đầu (như Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh/huyện/thị/thành phố…) trong việc tìm kiếm, mời gọi các nhà đầu tư chiến lược đến với địa phương.
Song song đó, lãnh đạo tỉnh cũng cần chỉ đạo các cơ quan chức năng, các huyện/thị/thành phố… tổ chức thực hiện việc rà soát về quỹ đất cũng như các cơ chế, chính sách để vận dụng và làm đối sách, ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư lớn/nhà đầu tư chiến lược, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia hay là các tập đoàn có tiềm lực hùng mạnh trong nước đến Bến Tre. Các doanh nghiệp này khảo sát, cùng với tỉnh lựa chọn sản phẩm/dịch vụ để đầu tư, phát triển loại hình du lịch nông nghiệp riêng biệt. Có như vậy, Bến Tre mới tạo nên được sức hút cho khu vực xung quanh, từ đó tạo động lực cho các hoạt động sản xuất/dịch vụ được khơi thông. Tuy nhiên, dù “trải thảm đỏ” nhưng phải có sự chọn lọc, thẩm định kỹ lưỡng, tránh để các nhà đầu tư yếu năng lực “ngâm” dự án, dẫn tới dự án treo, dự án không khả thi.
2.3. Về công tác quảng bá xúc tiến
Người nông dân khi được hỏi cũng mong muốn chính quyền hỗ trợ, giới thiệu khách du lịch đến với địa điểm/địa phương của họ, chiếm 26,5% lựa chọn trong số những người được hỏi. Tương tự, qua khảo sát lượng khách du lịch, trong số các phiếu được phát ra thì có trên 44% cho rằng, Bến Tre cần đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, maketting về du lịch nông nghiệp để du khách biết đến.
Đánh giá của các doanh nghiệp du lịch được khảo sát cho thấy, công tác quảng bá, xúc tiến hiện thực hiện chưa tốt, chủ yếu khách biết du lịch nông nghiệp Bến Tre qua Internet (gần 31%), qua bạn bè, người thân (29%), như biểu đồ sau:
Về công tác quảng bá xúc tiến du lịch, hiện nay Bến Tre đang giao cho Trung tâm Xúc tiến Du lịch thuộc Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch đảm nhiệm là chính. Tuy nhiên, đây cũng chính là hạn chế để tổ chức thực hiện, bởi, công tác này thường tốn rất nhiều kinh phí, đặc biệt là tham gia các sự kiện/hội chợ về du lịch trên thế giới. Vì vậy, trong bối cảnh nguồn kinh phí hạn chế, Bến Tre cần tập trung vào các hoạt động có trọng tâm, trọng điểm, kết hợp với các sự kiện lớn của tỉnh khi tham gia mời gọi, thu hút đầu tư ở nước ngoài cũng như ở các sự kiện mang tầm quốc gia, như: Hội chợ Du lịch TP.HCM (ITE), Hội chợ Du lịch Hà Nội (VITM)…
Tác giả cho rằng, để thực hiện tốt công tác quảng bá xúc tiến cần phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị (từ tỉnh xuống đến huyện/thị/thành phố…) để liên kết với các địa phương trong khu vực (kết hợp với nguồn kinh phí xã hội hoá), tạo nên các sự kiện mang tầm quốc tế có quy mô lớn, từ đó quảng bá, giới thiệu về Bến Tre nói chung cũng như du lịch nông nghiệp nói riêng, đặc biệt là những điểm khác biệt, riêng có của địa phương này.
2.4. Về chuỗi giá trị liên kết
Việc tạo ra chuỗi sản phẩm/dịch vụ mang tính giá trị cao, có sự liên kết là phù hợp với xu thế tất yếu của sự phát triển trong hoạt động sản xuất, lưu thông hàng hoá/dịch vụ, kể cả du lịch nông nghiệp. Thời gian qua, Bến Tre đã làm rất tốt đối với các sản phẩm từ dừa, hiện có nhiều doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng giá trị này. Tuy nhiên, vẫn còn đó là hoạt động chế biến thô, việc tạo ra các giá trị tinh từ nguyên liệu dừa có sẵn tại địa phương vẫn còn phụ thuộc vào các địa phương khác.
Vì vậy, trong chuỗi giá trị liên kết, ngoài cây dừa còn phải tính đến các sản phẩm nông nghiệp khác, như: bưởi da xanh, xoài, các loại nông/thủy sản… để tối đa hoá giá trị và lợi nhuận. Lúc này, người nông dân được hưởng lợi trước nhất, đồng thời, tạo ra các sản phẩm/dịch vụ bổ trợ, trong đó có phục vụ cho phát triển du lịch nông nghiệp. Điều này sẽ giúp cho địa phương giải được bài toán lâu nay “được mùa mất giá, được giá mất mùa”, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu hết sức khốc liệt như hiện nay.
Việc tăng giá trị của sản phẩm/dịch vụ nông nghiệp theo chuỗi là điều bắt buộc, nhất là các giá trị này mang lại lợi nhuận trực tiếp cho người nông dân tại vườn. Từ các giá trị này, liên kết với chuỗi lưu trú (chủ yếu là homestay, farmstay, housestay) của người nông dân sẽ tạo thành sản phẩm/dịch vụ khép kín về loại hình du lịch nông nghiệp. Để triển khai được mô hình này, các cơ quan quản lý Nhà nước, kể cả cấp huyện/thị/thành phố… cũng cần phải có các cơ chế chính sách, khuyến khích người nông dân xây dựng sản phẩm, dịch vụ phù hợp, mang đặc trưng riêng.
Điển hình như ngành nông nghiệp, UBND huyện/thị/thành phố… chịu trách nhiệm về hướng dẫn, hỗ trợ người nông dân phát triển nông nghiệp; ngành du lịch, huyện/thị/thành phố… tham gia tư vấn để người nông dân xây dựng, phát triển các sản phẩm/dịch vụ du lịch, xây dựng - cách thức vận hành cơ sở lưu trú… Thực tế, qua khảo sát, người nông dân cũng cho biết, việc không thể tổ chức lưu trú cho khách hoặc ít khả năng tổ chức được hoạt động này chiếm tới 66%. Còn số có thể phục vụ khách lưu trú chiếm 33% và số tổ chức tốt chỉ chiếm 1%.
Đồng thời, phải chỉ đạo/hợp tác với các tổ chức tín dụng đóng trên địa bàn hỗ trợ, tạo điều kiện cấp thêm vốn cho người nông dân trong các mô hình phát triển du lịch nông nghiệp, xem đây là một trong những ưu tiên để tổ chức thực hiện. Song song đó, cũng cần phải tháo gỡ các thủ tục hành chính còn nhiêu khê, rườm rà, phức tạp.
Tài liệu tham khảo
1. Cục Thống kê tỉnh Bến Tre, (2019), Niên giám thống kê, NXB TP.HCM, TP.HCM.
2. HĐND tỉnh Bến Tre, (2019), Nghị quyết số 12/2019-NQ/HĐND quy định một số chính sách hỗ trợ kinh phí, khuyến khích phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh Bến Tre, Bến Tre.
3. Nhóm nghiên cứu đề tài Nông dân làm du lịch ở Bến Tre, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành (2020), Số liệu/tài liệu khảo sát, TP.HCM.
4. Phan Thị Ngàn – Dương Thanh Tùng, (2021), Bến Tre: “Đưa người nông dân thành chủ thể phát triển du lịch nông nghiệp”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số tháng 5/2021, ISSN 0866-7373, tr.29-31.
5. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thông tỉnh Bến Tre, (2019), Báo cáo kết quả thực hiện các Nghị quyết, các Chương trình hành động về phát triển nông nghiệp, nông thôn, tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng chuỗi giá trị các sản phẩm nông nghiệp chủ lực; xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2015-2020. Đề xuất nhiệm vụ, giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh giai đoạn 2020-2025 theo hướng sản xuất xanh, sạch, nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh, hiệu quả và tính bền vững, Bến Tre.
6. Sở Văn hoá – Thể Thao và Du lịch Bến Tre, (2019), Báo cáo tình hình hoạt động du lịch năm 2019 và phương hướng nhiệm vụ năm 2020, Bến Tre.
7. Tỉnh uỷ Bến Tre, (2019), Chương trình hành động (số 22CTr/TU) của Tỉnh ủy Bến Tre về thực hiện Nghị quyết (số 08-NQ/TW) của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Bến Tre.
8. Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP.HCM (2019), Đề án Làng văn hoá du lịch Chợ Lách, TP.HCM.
9. Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch, 2014, Cẩm nang Du lịch nông thôn, Hà Nội.
Tài liệu online
10. Thư viện pháp luật, (2019), Luật Chứng khoán, 27-05-2021, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Chung-khoan/Luat-Chung-khoan-nam-2019-399763.aspx
[a] Theo mục 17, điều 4, Luật Chứng khoán 2019, có hiệu lực từ ngày 1/1/2021, giải thích: “Nhà đầu tư chiến lược là nhà đầu tư được Đại hội đồng cổ đông lựa chọn theo các tiêu chí về năng lực tài chính, trình độ công nghệ và có cam kết hợp tác với công ty trong thời gian ít nhất 3 năm” [10, tr.2]. Tuy nhiên, theo tác giả, nhà đầu tư chiến lược trong phạm vi chuyên đề này phải được hiểu là các doanh nghiệp có quy mô lớn về phạm vi hoạt động, năng lực tài chính tốt, cam kết gắn bó lâu dài, ít nhất 10 năm với địa phương trong điển khai xây dựng, phát triển sản phẩm/dịch vụ du lịch nông nghiệp tại địa phương.