Cà phê Măng Đen: Bản giao hưởng hương vị từ đại ngàn
Hơn một thập kỷ qua, nơi rẻo cao phía Tây Quảng Ngãi đã âm thầm diễn ra một cuộc "lột xác" ngoạn mục. Trên những nương rẫy từng bạc màu vì cây sắn, cây lúa, nơi cái nghèo từng đeo bám dai dẳng như sương mù mùa đông, nay đã được phủ xanh bởi một niềm hy vọng mới: Cây cà phê xứ lạnh.
Loài cây ấy bén rễ, vươn mình mạnh mẽ, không chỉ trở thành biểu tượng của hy vọng thoát nghèo của Măng Đen, mà còn là một đại sứ văn hóa, mang hương vị tinh tế của núi rừng vươn ra biển lớn. Đó là hành trình 12 năm đầy kiêu hãnh để định vị một thương hiệu trên bản đồ cà phê đặc sản Việt Nam.

Cận cảnh cây cà phê Arabica tại Măng Đen. Ảnh: Đô Đô
Cuộc "cách mạng" trên nương rẫy
Lịch sử cây cà phê tại Măng Đen không trải dài hàng trăm năm như tại Cầu Đất hay Buôn Ma Thuột, nhưng nó mang đậm dấu ấn của một cuộc cách mạng trong tư duy sản xuất và chính sách an sinh xã hội.
Những bậc cao niên kể lại, giống Arabica thực ra đã lác đác xuất hiện tại đây từ lâu, theo chân người Pháp hoặc được người dân mang về. Nhưng thuở ấy, lối canh tác "chọc lỗ bỏ hạt" phó mặc cho trời đất khiến cây còi cọc. Vì cái ăn quan trọng hơn cái uống, người Xơ Đăng dỡ bỏ cà phê để trồng lúa rẫy, trồng sắn. Loài cây này dễ trồng mà giá trị kinh tế thấp, đất đai dần suy kiệt, cái nghèo cái đói cứ luẩn quẩn bủa vây vùng rẻo cao này.
Giữa bối cảnh ấy, tháng 8/2013, UBND tỉnh Kon Tum trước đây (nay là tỉnh Quảng Ngãi) đã ký Quyết định số 33/2013/QĐ-UBND ban hành "Đề án hỗ trợ phát triển cây cà phê xứ lạnh tại các huyện Tu Mơ Rông, Đác Glây và Kon Plông".
Đề án này là một chính sách an sinh xã hội mang tầm chiến lược với ba mũi nhọn: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, xóa đói giảm nghèo thông qua tạo sinh kế bền vững cho bà con và bảo vệ sinh thái rừng với mô hình nông-lâm kết hợp.
Dự án có quy mô phát triển 1.600ha cà phê xứ lạnh tại 4.570 hộ gia đình, với tổng kinh phí là 519,8 tỷ đồng. Trong đó, huyện Kon Plông, đặc biệt là Măng Đen được định hướng thành vùng trồng cà phê xứ lạnh trọng điểm của tỉnh Kon Tum với lợi thế khí hậu, thổ nhưỡng lý tưởng.
Năm 2014, những hạt mầm hy vọng bắt đầu được gieo xuống. Đó là những ngày cán bộ khuyến nông "cùng ăn, cùng ở, cùng làm", cầm tay chỉ việc cho bà con. Từ những đôi tay chỉ quen cầm cuốc làm rẫy, người nông dân Măng Đen dần thành thục kỹ thuật đào hố, ủ phân, tỉa cành.


Người dân Măng Đen thu hoạch cà phê. Ảnh: Đô Đô
Đến năm 2016, những vườn cà phê đầu tiên bói quả, đánh dấu bước chuyển mình từ canh tác tự phát sang quy hoạch bài bản. Từ mảnh đất khô cằn chỉ mang lại vài triệu đồng mỗi năm nhờ cây sắn, cây cà phê đã trả nghĩa cho người bằng thu nhập gấp 5-6 lần. Những con số biết nói ấy đã thay đổi niềm tin của người dân.
Măng Đen khởi sắc từ đó, nhiều hộ dân tự nguyện đăng ký vào đề án. Những vườn cà phê từ từ nối nhau xanh mướt, tít tắp khắp vùng đồi bạc thuở xưa. Đến tháng 8/2025, Măng Đen đã sở hữu 672ha cà phê xứ lạnh, thu hút sự chung tay của nhiều doanh nghiệp và hợp tác xã, biến vùng đất này trở thành miền đất hứa đầy tiềm năng của giống Arabica chất lượng cao.
Bản giao hưởng hương vị từ đại ngàn
Nếu ai đó ví von Măng Đen là "Đà Lạt thứ hai", thì với giới mộ điệu cà phê, vùng đất này còn mang một vị thế thiêng liêng hơn: "Thánh địa mới" của Arabica Việt Nam. Hạt cà phê xứ lạnh ở Măng Đen mang trong mình ba phẩm chất cốt lõi: cá tính đại ngàn, sạch và thật. Đấy là thành quả của sự hội tụ thiên thuận, nhân hòa.
Măng Đen nằm ở độ cao trên 1.200m, khí hậu ôn hòa và đất đỏ bazan màu mỡ, lượng mưa lớn quanh năm. Đây là những điều kiện lý tưởng cho cây cà phê xứ lạnh Arabica sinh trưởng.
Ông Nguyễn Hoài Tâm, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt, Bảo vệ thực vật và Quản lý chất lượng nông lâm sản tỉnh Kon Tum trước đây (đơn vị phụ trách khu vực Măng Đen) cho biết thêm, ở đây do sương mù dày vào buổi sáng đóng vai trò như tấm màng lọc ánh sáng, bảo vệ lá khỏi cháy nắng, giữ ẩm cho đất, đặc biệt hữu ích trong mùa khô Tây Nguyên. Lượng mưa trung bình hơn 2.000mm/năm cùng độ ẩm cao khiến cây Arabica gần như không gặp tình trạng thiếu nước.
Đây cũng là yếu tố quan trọng nhất làm nên cấu trúc hạt chắc, vị chua thanh cân bằng cùng độ ngọt tự nhiên, những tiêu chí cốt lõi của cà phê đặc sản riêng biệt cho vùng đất này, mà những vùng trồng thấp không thể nào sao chép được.

Khí hậu và thổ nhưỡng phù hợp giúp cây cà phê Arabica phát triển tốt. Ảnh: Đô Đô
Yếu tố khác làm nên linh hồn của cà phê Măng Đen chính là phương thức canh tác dưới tán rừng hùng vĩ. Đại diện Café de Măng Đen, một trong những thương hiệu đầu tiên thành công mang cà phê rời rẻo cao xuống đồng bằng chia sẻ đầy cảm hứng: "Tại đây, vào mùa hoa cà phê tháng 3, tháng 4, cà phê trồng dưới tán rừng và được ong thụ phấn, hút mật, giao thoa cùng các loại cây nguyên sinh và tạo nên các tầng hương đặc biệt. Khi canh tác trồng cà phê trong hệ sinh thái rừng đa dạng với 80% diện tích là rừng đã cho ra những hạt cà phê chất lượng".
Đặc biệt, sự tinh khiết của hạt cà phê còn đến từ triết lý canh tác của người bản địa. Đồng bào Xơ Đăng nói không với hóa chất. Họ diệt sâu bệnh bằng những phương pháp thủ công và tôn trọng tự nhiên như một phần máu thịt. Vùng đất Măng Đen hiện vẫn còn hoang sơ với tỉ lệ che phủ rừng hơn 80%, giúp cho nguồn đất, nước chưa bị nhiễm độc. Chính sự hòa quyện giữa thiên nhiên hoang sơ và bàn tay chăm sóc đôn hậu đã tạo nên một hồ sơ hương vị đầy mê hoặc cho Arabica Măng Đen.

Người dân Măng Đen nói không với việc sử dụng phân bón hóa học trong canh tác cà phê Arabica. Ảnh: Đô Đô
Với hơn 10 năm kinh nghiệm chuyên sâu trong ngành cà phê, bà Julie Đặng, chuyên gia cảm quan hương vị, Nhà sáng lập Học viện Barista School, kiêm thành viên chuyên nghiệp Hiệp hội Cà phê đặc sản thế giới, đánh giá cao lợi thế về nét "cá tính" của cà phê Măng Đen, phản ánh tích cực về điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, phù hợp cho thực khách thích gu cà phê nhẹ nhàng, và cả giới sành cà phê đánh giá cao tính nguyên bản, cốt lõi.
"Arabica Măng Đen mang hương hoa thoảng, phảng phất hương cam, có vị chua sáng, nhẹ kiểu cam-chanh, trong trẻo và sạch. Cà phê ở vùng này có độ ngọt thấp đến trung bình, độ đắng thấp dịu. Thể chất hạt nhẹ đến trung bình. Khi uống để lại hậu vị ngọt thanh kiểu mía lau, đường nâu", bà Julie Đặng - Nhà sáng lập Học viện Barista School cho biết.

Julie Đặng - Nhà sáng lập Học viện Barista School. Ảnh: NVCC
Đó là thứ hương vị không ồn ào, không đắng gắt mà tinh tế và sâu lắng. Nó như chính con người nơi đây: mộc mạc nhưng chân thành.
Cây cà phê uống sương mai, hít thở gió ngàn, nghe tiếng chim rừng hót mà lớn lên. Để rồi, tất cả kết tụ thành những giọt nồng nàn mà tinh tế chinh phục cả những thực khách khó tính từ Nhật Bản hay phương Tây.
Những hạt cà phê xứ lạnh hào hứng rời rẻo cao, nhiều lần "xưng vương" ở cuộc thi cà phê đặc sản xuất sắc trong nước. Có những lô từ vùng đất này đã đạt trên 84 điểm theo tiêu chuẩn CQI (một trong những chứng chỉ cà phê quan trọng và uy tín nhất thế giới, được coi là tiêu chuẩn quốc tế trong việc đánh giá chất lượng cà phê), đứng vào hàng ngũ cà phê đặc sản xuất sắc của thế giới. Và cũng có những lô chất lượng thượng hạng tự hào xuất hiện trên kệ hàng của các quán cà phê bên kia biên giới.

Những hạt "tinh hoa" Arabica của Măng Đen. Ảnh: Đô Đô
Từ một vùng đất từng loay hoay trong đói nghèo, Măng Đen hôm nay đang được nhắc đến như một "miền đất hứa" của Arabica nơi phía Tây Quảng Ngãi, một nàng thơ mới của cà phê đặc sản Việt Nam. Thách thức vẫn còn, nhưng tin rằng, bản trường ca đầy tự hào ấy chỉ mới bắt đầu những nốt nhạc đầu tiên.
|
Ông Nguyễn Nhật Trường, Phó Chủ tịch UBND xã Măng Đen chia sẻ, những năm gần đây, cà phê Măng Đen đã có bước phát triển vượt bậc, lượng cà phê từ Măng Đen trồng và tiêu thụ tăng lên đáng kể, bình quân hàng năm tăng trên 30%. Năm 2022, lượng cà phê trồng từ Măng Đen và ly uống thưởng thức khoảng 50.000 ly. Hiện nay, trên địa bàn huyện có 5 điểm cà phê đặc sản để trải nghiệm (Meli Coffee, T'Măng Deeng, café De Măng Đen, Rẫy Rừng coffee, Bạch Dương); có 20 đơn vị cà phê đang sử dụng hạt nguyên liệu trên cả nước. Cà phê Măng Đen đang trở thành thương hiệu đạt chất lượng và được khách trong và ngoài nước ưa chuộng. |


