Bếp - từ bếp tới… bếp
Trong các "công đoạn bếp" của con người, thời chưa có diêm tới quẹt ga như bây giờ, việc giữ lửa là quan trọng nhất. Nếu người Việt ở đồng bằng giữ lửa bằng rơm con cúi thì người Tây Nguyên giữ bằng chính thứ họ đang sống chung hòa đồng: Củi rừng.
Mấy chục năm sống ở Gia Lai, tôi có may mắn chứng kiến nhiều cuộc khai quật di chỉ khảo cổ, mà sự kiện gây chấn động nhất là phát hiện dấu tích loài người tối cổ ở Rộc Tưng, thị xã An Khê, Gia Lai cách đây gần chục năm, khiến thế giới phải xem xét lại bản đồ sự xuất hiện loài người.
Khi khai quật, các nhà khoa học Nga và Việt đã phát hiện, gần một triệu năm trước từng có người tối cổ trú ngụ, sinh sống. Một tiến sĩ sử học chỉ cho tôi cái hố thám sát có những cục đá xếp lô nhô: Bếp người xưa đấy.
Bếp của người Dao. Ảnh: Nguyễn Sơn Tùng
Các cuộc khai quật mà tôi được chứng kiến ở Chư Prông, Biển Hồ và An Khê (cùng của Gia Lai) đều thấy xuất hiện bếp. Các nhà khoa học căn cứ vào bếp của người xưa để tính toán các yếu tố lịch sử. Tôi không rành lắm việc này, nhưng lẩn mẩn nghĩ, có khi tại bếp chính là cái gốc văn minh của con người.
Bếp, chính là nơi xác nhận sự sống của con người, dẫu có khi lúc đó, nó không hoặc chưa dùng để nấu nướng. Gần triệu năm trước ở Rộc Tưng, lưu vực con sông Ba ở An Khê kia, chắc gì con người đã biết nấu nướng, họ vẫn ăn sống nuốt tươi, nhưng vẫn hiện diện những cục đá làm bếp và còn dấu tích của than.
Bếp chính là sự phân biệt rõ rệt nhất con người với con thú ngày xưa. Tất cả mọi thứ mọi việc như nhau, kể cả kiếm ăn, sinh con đẻ cái, sinh hoạt tình dục, nhưng một trong những cái con người hơn con thú chính là con người có bếp. Ý thức sinh tồn, ý thức quần tụ, ý thức cộng đồng... bắt đầu từ bếp, dẫu rất thô sơ…
Bếp của người Dao Lô Gang
Bếp xuất hiện từ khi nào chắc còn nhiều bàn cãi, nhưng chắc chắn nó có khi con người bước vào xã hội văn minh. Khi ấy, lửa và bếp vừa chứng minh sự tồn tại vừa đem lại sự sống cho con người. Hành trình của con người là hành trình... quay về bếp. Đi đâu làm gì cũng về với bếp. Tết lại càng gắn với bếp. Bếp chính là đoàn tụ, là hạnh phúc, là gắn kết yêu thương, là một phần đời sống. Bếp không chỉ là vật chất, nó là linh hồn của gia đình, của xã hội... |
Suốt tuổi thơ sống nhiều ở Bắc Trung Bộ và đồng bằng Bắc Bộ, ấn tượng bếp trong tôi là những bếp cục gạch. Ba cục gạch dựng lên thành bếp, nấu rơm, rạ hoặc lá thông, lá phi lao. Nhà có điều kiện hơn thì có bếp kiềng và nấu củi. Và thứ để giữ lửa là con cúi. Tức rơm được quấn với nhau thành dây dài, to cỡ cườm tay trẻ em. Lửa được giữ ở đấy, suốt ngày đêm, khi cần thì chúm môi thổi bùng lên thành ngọn lửa.
Rồi tới thời lò nấu mùn cưa và trấu, tiến lên nấu than. Lên Tây Nguyên, về các buôn làng, tôi lại gặp những bếp lửa rừng rực suốt ngày đêm trong các ngôi nhà sàn hoặc cả nhà rông. Người Tây Nguyên xưa lấy bếp làm đơn vị để tính hộ. Cứ một hộ là một cái bếp, nó ở ngay giữa nhà. Nếu gia đình có thêm người (bắt chồng về) thì thêm một bếp. Người Ê Đê, M'Nông ở Đắk Lắk, Đăk Nông còn có nhà dài. Cứ thêm một gia đình, họ nối thêm ra một gian nhà, tất nhiên mỗi gian nhà như thế, bếp lửa luôn là trung tâm, có nhà kéo dài tới mấy chục bếp.
Bếp của người Nùng Phàn Slình ở Lạng Sơn. Ảnh: Nguyễn Sơn Tùng
Trong các "công đoạn bếp" của con người, thời chưa có diêm tới quẹt ga như giờ, công cuộc giữ lửa là quan trọng nhất. Nếu người Việt ở đồng bằng giữ lửa bằng rơm con cúi, thì người Tây Nguyên giữ bằng chính thứ họ đang sống chung hòa đồng: Củi rừng.
Củi cứ ngún suốt ngày đêm thế. Và té ra, cách giữ lửa này không chỉ là giữ lửa mà nó còn nhiều công dụng khác. Nhờ hơi khói bếp mà mái tranh, cái cột cái kèo nhà rất chắc chắn, không sợ mối mọt. Những quả bầu đựng nước, cái gùi xếp quanh sàn lên nước đen bóng. Và những món ăn gác bếp nó đúng là... gác bếp.
Hiện nay, món thịt trâu gác bếp của bà con Tây Bắc đang rất có giá. Tương tự như thế là món nai gác bếp của người Tây Nguyên xưa, giờ hết nai người ta chuyển sang bò. Bò một nắng chấm muối kiến của người Tây Nguyên đang được rao bán khắp nước. Món truyền thống nhất là... chuột. Vào nhà Tây Nguyên thấy những xâu chuột treo trên bếp, có khách quý mới hạ một con. Chuột núi sạch như chuột đồng bằng, ăn nhiều lá và củ rừng, thơm như thịt dúi...
Bếp của người Tây Nguyên cũng là một thứ tài hoa cộng thông minh. Bốn thanh gỗ được lồng vào nhau làm cữ. Đất sét, hoặc đất tổ mối, nhào nhuyễn với muối hoặc tro. Đặt sát sàn 9 cái bẹ chuối tươi rồi đắp đất ấy lên, trong khuôn khổ của cái khuôn gỗ, thế là có cái bếp. À không, ba cục đá nữa. Có vùng bà con treo nồi trên bếp chứ không dùng đá như cái kiềng hay ông đầu rau của người Kinh, cứ lủng la lủng lẳng thế nấu.
Trong cái bếp ấy, lửa thường xuyên được giữ. Không phải bằng củi thông thường, tức là củi đã được chẻ. Củi chẻ là dùng khi nấu ăn. Còn khi giữ lửa, người ta cho cả những thân cây gỗ khô vào. Nó không cháy bùng lên, mà cứ ngún thế. Khi cần chỉ việc thổi, rồi dí củi nhỏ vào, thông thường nhất là ngo (xà nu) tức nhựa thông, làm mồi thắp lửa.
Bếp của người Nùng ở Lạng Sơn. Ảnh: Nguyễn Sơn Tùng
Những đêm mùa khô, tức là mùa lạnh ở Tây Nguyên, chăn chiếu đơn sơ, cách tốt nhất để không bị lạnh là nằm quây xung quanh bếp lửa luôn phập phù ngun ngún ấy. Chúng tôi đã rất nhiều lần qua đêm ở nhà rông, ở ngay trong chính nhà sàn của bà con, cũng nhờ những cái bếp cháy suốt đêm như thế mà ngon giấc. Kinh nghiệm của bà con Tây Nguyên là nằm xung quanh bếp lửa, chân hướng về bếp thì sẽ ấm hơn đầu.
Chúng tôi đã rất nhiều lần qua đêm ở nhà rông, ở ngay trong chính nhà sàn của bà con, cũng nhờ những cái bếp cháy suốt đêm như thế mà ngon giấc. |
Cái gầm nhà sàn của người Tây Nguyên là nơi chứa củi. Củi xếp hết sức đẹp. Người con gái Sê Đăng trước khi lấy chồng phải kiếm cho được cả một gầm sàn củi như thế. Vì sao nó đẹp? Vì nó đều tăm tắp. Các thanh củi phải bảo đảm không được dài quá khuôn bếp, thò ra ngoài dễ bị cháy lan ra sàn. Sàn nhà thì hoặc là bằng le (một loại cây thuộc họ tre nứa) hoặc bằng ván, đều là thứ... ưa lửa.
Những đống củi được xếp đều tăm tắp. Ảnh: Văn Công Hùng
Và đấy là cách phòng cháy hữu hiệu để người Tây Nguyên ở nhà sàn cả ngàn đời mà không, hoặc rất ít khi bị cháy. Những cái đống củi dưới sàn nhà ấy, vô tình trở thành điểm cho rất nhiều tay máy ảnh xúm vào chụp mỗi khi xuống làng. Nó đẹp, đều chằn chặn, xếp tăm tắp như hàng mẫu trong siêu thị.
Phát minh đầu tiên và vĩ đại nhất cho tới giờ của loài người, vẫn là tìm ra lửa. Hồi học văn học cổ đại Hy Lạp ở đại học, chúng tôi luôn nhớ hình ảnh vị thánh Promete đã "tuẫn tiết trên tấm lịch triết học" rồi thán phục ông, thán phục tổ tiên mình. Bây giờ, sau thời đại rơm, sang thời đại củi. Sau củi tới bếp điện, bếp điện hồng ngoại và bếp từ. Đến mức nhà thành phố cũng vẫn giữ nếp quê cúng ông Táo nhưng chả biết ông Táo là ông nào, bèn mang ra... cổng cúng.
Bếp lửa của người Tây Nguyên. Ảnh: Văn Công Hùng
Bây giờ, lửa không còn là lửa nữa bởi không còn ngọn như bếp điện. Thậm chí không thấy nó đỏ nữa, mà im lìm như bếp từ. Bà con Tây Nguyên nhiều nhà cũng đã chuyển sang dùng bếp ga. Nhưng trong các ngôi nhà sàn, nhà rông của làng Tây Nguyên, vẫn hiện diện cái bếp truyền thống.
Lại nhớ chuyện hồi ông anh hùng Núp về hưu, nhà nước làm cho ông cái nhà rất xịn dưới làng Kông Hoa (làng Stơ) của ông. Nhà 2 tầng, bếp kiểu hiện đại, nhưng cuối cùng, giữa cái phòng khách sáng choang gạch men ấy, luôn hiện diện một đống lửa. Cứ về tới nhà là 2 ông bà, Núp và Ch’ rơ, sà vào đấy, thổi lửa lên, ôm ghè rượu...
Không ai biết chính xác chợ Việt Nam đươc hình thành khi nào, có bao nhiêu cái chợ và bao nhiêu loại chợ khác nhau. Nhưng có...