Những người giữ linh hồn và trao truyền nghề làm cốm ở Hợp Thành
“Con gái biết làm cốm, cháu gái thích học nghề, còn tôi sinh ra, lớn lên và sống đến bây giờ, cốm đã trở thành một phần đời”, bà Lương Thị Trục, người Tày ở Hợp Thành (Lào Cai), chia sẻ về truyền thống gia đình một cách tự hào.
“Cháu muốn học làm cốm vì vui”
Lý Thu Ngân, cháu gái 12 tuổi của bà Lương Thị Trục - người Tày 60 tuổi, lẽo đẽo theo bà ra đồng từ sáng sớm. Khi có khách, em lại ngồi nghe bà kể chuyện làm cốm chăm chú. Nhưng được hỏi thì rụt rè: “Em thích đi theo học bà lựa hái lúa, học làm cốm, làm bánh”. Lý do Ngân muốn học vì “thấy mùa cốm nào bà và mẹ cũng vui, các cô trong thôn cũng rộn ràng”.
Đỗ Ngọc Ánh, 10 tuổi, ở thôn Thượng 2 thay vì theo bạn đi chơi hội, em đi cùng Ngân ra đồng từ sáng sớm, ngồi xem và học các cô trong thôn làm cốm. “Cháu chưa đủ tuổi nên chưa được mẹ cho xuống đồng, mới chỉ phụ được các bà, các cô những việc nhỏ khi họ làm việc. Nhưng cháu thích cốm vì nó thơm mà ngọt. Bao nhiêu năm ăn rồi, mà đến mùa cốm vẫn thèm”.
Lý Thu ngân (ở giữa) và Đỗ Ngọc Ánh (ngoài cùng bên trái) đang cùng bà và mẹ đi xuống đồng hái lúa về làm cốm.
Chị Nguyễn Thị Hưng, 54 tuổi, có hai con gái đều ở trong Tổ đội Cốm OCOP 3 sao Hương cốm Hợp Thành. Là người nắm giữ nhiều bí quyết lựa lúa, rang thóc, chị Hưng tâm niệm công việc hiện tại chị muốn làm là truyền lại bí quyết cho con gái và các cháu. “Thời chúng tôi học làm cốm như học nấu cơm, quét nhà. Thời bây giờ người trẻ có nhiều mối quan tâm, nên con chịu học, muốn học, tôi vui lắm”.
Bà Trục kể, làm cốm không khó nhưng cần sự chuyên cần, tỉ mỉ. Từ khâu lựa hái lúa trên đồng đến tuốt hạt, rang, hong lúa khô trước khi rang đều diễn ra liên tục. Rang hạt trên bếp lửa lớn nóng nực nhưng không được lơ là, phải đảo đều tay và biết đợi đúng lúc hạt chín vừa đẻo để dừng. Từ khi có máy xát, công đoạn tách vỏ trấu đều có máy móc trợ giúp. Nhưng bà Trục và nhiều chị em người Tày vẫn duy trì làm cốm giã tay. Hỏi trong nhà có mấy người còn biết làm cốm giã, bà Trục kể: “Con gái, cháu gái đều biết làm, còn tôi thì cốm đã là một phần đời”. Bà Trục cũng rất vui vì cô bé Lý Thu Ngân dù còn nhỏ nhưng cũng hăng hái theo học. “Đều là tự nhiên cháu muốn, gia đình không ai ép”.
Chị Ma Thị Mỹ Hiệp.
Chị Ma Thị Mỹ Hiệp, cán bộ Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã cho rằng, thực hành chính là cách trao truyền di sản tự nhiên và đơn giản nhất. Khi người trẻ tìm thấy niềm vui trong lao động, tìm thấy ý nghĩa của việc các bà, các mẹ làm, họ sẽ tự học và làm theo. "Ở Hợp Thành, trong tổ đội Cốm OCOP 3 sao có cả người già, người trẻ, tất cả đều tham gia tự nguyện", chị Hiệp kể.
Phụ nữ - người giữ linh hồn và trao truyền di sản
Đặc tính của các nghi lễ mừng cơm mới không chỉ là nghi thức nông nghiệp mà là sự tái khẳng định bản sắc tộc người thông qua biểu tượng lúa gạo - nguồn sống, linh hồn của văn hóa nông nghiệp. Ở đó, người chủ lễ dâng những hạt lúa đầu tiên lên thần linh để tỏ lòng biết ơn và cầu cho mùa tới được mưa thuận gió hòa.
Phụ nữ Tày biểu diễn trong Lễ hội Cốm ở Hợp Thành.
Trong bối cảnh công nghiệp hóa và đô thị hóa mạnh mẽ, việc duy trì và tôn vinh công việc làm cốm hay nghi lễ như lễ mừng cơm mới giúp chúng ta giữ được “mạch nguồn văn hóa nông nghiệp” – cái gốc của tinh thần Việt Nam: cần cù, nhân ái, hướng thiện và biết ơn cuộc sống. TS Bùi Hoài Sơn – Đại biểu Quốc hội, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Văn hóa và Xã hội, Quốc hội cho rằng: “Khi một dân tộc còn biết cúi đầu trước hạt lúa, còn biết tri ân trời đất, thì dân tộc đó vẫn giữ được phần hồn thiêng bất diệt của mình”.
Giữ hồn thiêng ấy không thể thiếu vai trò phụ nữ. Anh Vi Văn Lù, thôn Cáng 1 kể, để có 3 tạ cốm bán trong lễ hội, hàng chục chị em phụ nữ trong thôn đã tham gia hái, tuốt, rang, sàng, xảy cốm trong hai ngày đêm. “Thiếu phụ nữ thì cánh đàn ông chắc đợi thóc già ăn gạo hết, chứ không làm nổi”, anh Lù nói.
Ông Dương Tuấn Nghĩa – PGĐ Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai.
Ông Dương Tuấn Nghĩa, Phó Giám đốc Sở Văn hoá và Thể thao Du lịch tỉnh Lào Cai cũng đồng tình: “Mặc dù ít xuất hiện trong các sự kiện lớn của dòng tộc nhưng phụ nữ Tày vừa là người cần mẫn trên cánh đồng, vừa là người thực hành văn hóa đồng thời giữ linh hồn nghề làm cốm qua thời gian”.
PGS.TS Nguyễn Thị Song Hà, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam kể: “Khi tôi gặp các chị phụ nữ Tày ở Hợp Thành, ban đầu họ rụt rè, nhưng khi được chia sẻ về truyền thống, họ hoạt bát và hăng say”. Ở góc nhìn chính sách, PGS.TS Nguyễn Thị Song Hà cho rằng, để văn hóa thấm đẫm trong đời sống, chủ thể - những người dân phải có không gian để tự hào và kể câu chuyện về truyền thống của mình.
PGS Nguyễn Thị Song Hà bên những người Tày trong Lễ hội Cốm ở Hợp Thành.
Nghề làm cốm cũng giống những điệu múa, trang phục, nhạc cụ hay những lời then - khi được cất lên và hiện diện trong không gian của họ, tất cả đều trở nên đẹp đẽ hài hoà. Cốm cũng là ngôn ngữ biểu đạt văn hoá giúp cộng đồng kết nối với cội nguồn và kết nối với nhau. Ký ức của người lớn tuổi là hiện tại của người trẻ - và văn hoá sẽ tiếp diễn nếu được thực hành và trao truyền.
Trẻ em vui chơi trong ngày hội.
“Em thích học làm cốm vì vui” - lời tâm sự của một em gái 12 tuổi tưởng đơn giản, nhưng chứa đựng lẽ tự nhiên của đời sống. Niềm vui chỉ có khi họ tìm thấy ý nghĩa của việc mình làm. Giống như lời kể của người đàn ông Tày Vi Văn Lù, những ngày chuẩn bị cốm cho lễ hội cũng là thời gian vui nhất nhì trong năm của người Tày. Khi ấy người lớn làm hàng, trẻ con nấu ăn, cả thôn quần tụ, mỗi năm đều là kỷ niệm.