‘Chủ nghĩa Khắc kỷ’ - Sống thanh thản nhờ biết bỏ qua những điều ‘không quan trọng’
Những năm gần đây, Khắc kỷ dường như trở thành chủ nghĩa hoàn hảo và được ưa chuộng. Lý do thật đơn giản, bởi chúng ta đang đối mặt với với nhiều tai ương hơn: đại dịch, biến đổi khí hậu, bất ổn việc làm và nền kinh tế… khiến cho ai ai cũng vội vàng muốn học phong cách sống bình thản của các nhà Khắc kỷ cổ đại.
Hiểu đúng để không thành người vô cảm
“Xin ban cho con an tĩnh để chấp nhận những điều con không thể thay đổi, can đảm để thay đổi những điều con có thể, và khôn ngoan để biết sự khác biệt”. Đó là lời nguyện an tĩnh nổi tiếng đầu thế kỷ 20, đã được tổ chức trị liệu Alcoholics Anonymous và nhiều nhà trị liệu hiện đại khác sử dụng.
Thật trùng hợp, lời nguyện này cũng truyền tải cô đọng nguyên tắc cốt lõi của chủ nghĩa Khắc kỷ: sự phân biệt giữa cái nằm trong và nằm ngoài khả năng kiểm soát của một con người. Sự phân chia này và tác dụng chữa trị cảm xúc đi kèm chính là đặc điểm cuốn hút nhất của học thuyết Khắc kỷ trong mắt người đọc thời hiện đại.
Trong cuốn “Chủ nghĩa Khắc kỷ” (tựa gốc “Stoicism and the Art of Happiness”), Donald Robertson - một trong những cây viết nổi tiếng nhất hiện nay về học thuyết này - đã khảo sát lại tất cả các nguồn sẵn có, từ đó trình bày cặn kẽ, có hệ thống và dễ hiểu về triết học Khắc kỷ.
Tất nhiên, những quan điểm và bài tập tâm lý Khắc kỷ nên được hiểu cẩn trọng trong bức tranh toàn cảnh của học thuyết này. Bởi sự thờ ơ của người Khắc kỷ với điều “không quan trọng”, nếu không được hiểu cặn kẽ, chi tiết, và vô tình bị tách rời khỏi hệ thống chằng chịt của nó, thì dễ dẫn đến hiểu sai và áp dụng sai. Chẳng hạn, dù người Khắc kỷ phân chia ranh giới giữa điều có thể và không thể kiểm soát, nhưng họ cũng cho phép bản thân có những cảm xúc tự nhiên, tức thời với mất mát và đau thương.
Tương tự, người Khắc kỷ cũng có tình yêu, tình bằng hữu, lòng bác ái - những điều tưởng chừng thuộc về phạm trù “ngoại tại” với chúng ta vì liên quan đến cuộc đời của người khác. Như Marcus Aurelius đã mô tả về lý tưởng của người Khắc kỷ: “thoát khỏi mọi cảm xúc nhưng vẫn đầy tình thương”. Trong cuốn sách của mình, tác giả Robertson cũng nhận định “ước muốn nhân loại đều được hạnh phúc, phồn thịnh chính là cốt lõi của lòng bác ái Khắc kỷ”.
Và dù nhà Khắc kỷ biết thanh thản chấp nhận điều nằm ngoài tầm kiểm soát, anh ta không hề cam chịu thụ động, không phải là “tấm thảm chùi chân” dễ bị ngược đãi. Hoặc, cho dù người Khắc kỷ bàng quan với những điều “không quan trọng”, đôi khi họ cũng hành động ưu tiên điều “không quan trọng” này hơn điều “không quan trọng” kia, chẳng hạn ưu tiên sức khỏe hơn bệnh tật; miễn là sự ưu tiên đó không làm tổn hại đến đức hạnh.
Thuyết Khắc kỷ và khả năng trị liệu cảm xúc
Jules Evans, người quen biết của tác giả, đồng thời là một cây viết và nhà nghiên cứu, trong thời gian học đại học đã mắc chứng trầm cảm và rối loạn lo âu ngày càng trầm trọng. Sau đó, ông tham gia nhóm trị liệu bằng liệu pháp CBT, vốn có nguồn gốc từ triết học Khắc kỷ, nhờ đó mà đã vượt qua được chứng hoảng loạn và kiểm soát tốt hơn các vấn đề về cảm xúc.
Tìm hiểu sâu hơn sau trải nghiệm đó, nhà nghiên cứu này nhận ra triết học cổ đại vốn là một hình thức trị liệu tâm lý. Các trục trặc cảm xúc của bản thân, Jules nhìn nhận, trong chừng mực nào đó, xuất phát từ hành động tập trung quá mức vào việc có được sự công nhận và tán thành của người khác hay không, tức chú trọng vào những điều không quan trọng.
“Ta có thể lấy lại sự tự chủ bằng cách lựa chọn các giá trị nội tại, như trí tuệ, thay vì những giá trị ngoại tại như địa vị hay quyền lực”, Jules nhắc lại ý triết học Socrates cổ đại.
Trong “Chủ nghĩa Khắc kỷ”, sau khi trình bày về những nguyên tắc cốt lõi của học thuyết, Donald Robertson bàn sâu vào 3 phương diện thực hành của thuyết Khắc kỷ: Kỷ luật khát khao, Hành động và Phán xét.
Liên hệ chặt chẽ với 3 kỷ luật này là kho bài tâm lý Khắc kỷ rất đa dạng và đặc sắc, như: suy ngẫm về hiện tại; hành động với mệnh đề dự phòng; tiên liệu tai ương và cái chết; chiêm nghiệm vạn vật với “góc nhìn từ trên cao”… Đây chính là các bài tập thực hành hàng ngày để người Khắc kỷ rèn luyện thái độ thờ ơ với những điều “không quan trọng”.
“Tiên liệu tai ương” là phương pháp đặc trưng, nổi tiếng nhất của chủ nghĩa Khắc kỷ. Robertson giải thích rằng, khi được dự liệu trước, những tai hoạ sẽ giảm tính bất ngờ và ít gây đau đớn hơn; đồng thời, khi nhìn nhận bình thản, trực diện một tai ương, ta cũng nhận ra chúng “trung lập”, tức không tốt, không xấu, thuộc phạm trù “không quan trọng”.
Trong “Chủ nghĩa Khắc kỷ”, Donald Robertson là một cầu nối cẩn trọng và khiêm nhường, giúp người đọc thời hiện đại hiểu đúng những tinh hoa của học thuyết. Ông không sa đà vào diễn đạt lại những tư tưởng Khắc kỷ trong bối cảnh đương đại, nên tác phẩm vẫn giữ được hơi thở lẫn những tư tưởng gốc gác từ cổ đại.
Đồng thời, nhờ những nỗ lực truyền tải của Donald Robertson trong việc diễn giải ý tứ lẫn lựa chọn từ vựng, cuốn sách này gần gũi và không khó hiểu, thậm chí với những người vừa mới làm quen với thuyết Khắc kỷ.
“Đây là một cuốn cẩm nang, hy vọng hướng dẫn được cho bạn những cách thức mà chủ nghĩa Khắc kỷ đã đưa ra, hoặc chí ít là đóng góp vào ‘triết lý sự sống’ cho thế giới hiện đại”, Robertson cho hay.
Về tác giả
Donald Robertson là một nhà tâm lý trị liệu chuyên về Liệu pháp Nhận thức - Hành vi (Cognitive-Behavioural Therapy - CBT) và điều trị các hội chứng lo âu. Ông có những nghiên cứu sâu sắc về mối quan hệ giữa triết học cổ đại với liệu pháp tâm lý hiện đại, đặc biệt là mối quan hệ giữa chủ nghĩa Khắc kỷ và Liệu pháp Nhận thức - Hành vi. Ông là tác giả của năm cuốn sách về tâm lý và tâm lý trị liệu, bao gồm Build your Resilience (2012) trong loạt sách Teach Yourself, và The Philosophy of Cognitive-Behavioural Therapy: Stoic Philosophy as Rational and Cognitive Psychotherapy.
Robertson nuôi dưỡng tình yêu triết học từ năm 17 tuổi, theo học triết tại đại học Aberdeen (vương quốc Anh) đồng thời thực hành tu tập theo Phật giáo, nhưng sau khi tốt nghiệp lại theo đuổi con đường tư vấn và trị liệu tâm lý. Ông tóm gọn về những mối quan tâm đa dạng của mình: “Tôi luôn khát khao làm sao để ba thứ - trị liệu, triết học và thiền - càng hoà hợp với nhau càng tốt”.