Văn Công Hùng tự lái xe xuyên Việt: Thương nhớ miền quê ngoại

Chia sẻ

Chia sẻ zalo Chia sẻ zalo Chia sẻ zalo Chia sẻ zalo

Rời Thanh Hóa, nhà thơ Văn Công Hùng tiếp tục chuyến phượt xuyên Việt của mình tới Ninh Bình, quê ngoại của nhà thơ.

Ngày xưa, cứ hè là mẹ lại cho tôi một mình một xe, đạp từ Thanh Hóa ra Ninh Bình chơi với bà ngoại, các cậu và con các cậu. Đấy là phần thưởng rất lớn với tôi.

Mẹ tôi, nâng con hơn nâng trứng mỏng dù cụ rất nghiêm khắc, chả hiểu sao lại tin tưởng cho một 'thằng oắt con' là tôi, bé như cái kẹo, đạp cái xe bằng đầu ngón chân vì đặt cả bàn chưa tới pedan, nhún bên này vẹo bên kia, nhấp nhổm thế mà cũng tới Ninh Bình.

Cái xe hồi ấy là cả gia tài, ông con trai, dẫu khi đẻ suy dinh dưỡng nặng, mẹ không có sữa phải nuôi bằng nước cơm, oặt oẹo lớn, thì vẫn hơn cả gia tài. Cứ hè đến, 2 gia tài ấy tha nhau gần trăm cây số Thanh Hóa - Ninh Bình.

Từ lúc học lớp 7 hệ 10 năm hồi đó, tôi đã thuộc lòng cung đường này, từ Đò Lèn, Hà Trung, tới Bỉm Sơn, Tam Điệp, tới Ghềnh, cầu Lim rồi núi Sẻ. Nhà bà ngoại tôi ở ngay núi Sẻ, thuộc xã Ninh Mỹ, Gia Khánh, Ninh Bình. Giờ nơi đây là ranh giới ngay thành phố Ninh Bình và huyện Hoa Lư.

Hồi ấy, đường 1 chạy qua đoạn này luồn qua một quả núi. Chính xác là chạy qua chân quả núi, mà quả núi này có một hòn đá khổng lồ vươn sang bên kia đường, tạo thành một cái hang. Đầu tiên là người ta phá xong cái phần chườm qua đường ấy nung vôi và làm đá xây dựng. Tôi nhớ cả làng ấy có nghề đập đá. Từ những cục đá to, các bà các chị ngồi dùng búa đạp ra thành đá 1X2 rồi 2X3 và 3X4... Các chàng trai thì phá đá.

Từ cái hòn đá khổng lồ vươn đường ấy, người ta "quy hoạch" xong cả ngọn núi Sẻ khổng lồ, để giờ nó thành cái chợ. Mấy chục năm sau khi vào Huế rồi lên Gia Lai, lần đầu tiên tôi trở ra Bắc bằng ô tô cơ quan. Hẹn anh lái xe là qua thị xã Ninh Bình khoảng hơn 5 cây số thì nhìn bên trái thấy cái núi bên đường thì dừng. Tôi cũng căng mắt ra nhìn, tới lúc xe tới tận Ngọc Hồi thì biết là đã luột qua. Thì lấy núi làm mục tiêu mà giờ nó phẳng lì thì mất phương hướng là đúng còn gì?

Ngay mẹ tôi, hồi ấy đi công tác Thanh Hóa - Hà Nội đạp xe cũng là bình thường. Mẹ kể có lần còn đi bộ nữa. Hồi cải cách ruộng đất, nghe báo là ông ngoại tôi bị quy địa chủ, đấu tố dữ lắm, bà đi bộ về.

Tối 30 Tết, nhọ nhẹ mặt người thì tới nơi. Lục trong bếp còn nải chuối xanh, mấy đứa em trai nheo nhóc. Hỏi thì biết bố đang bị quỳ ngoài đình. Bà mang giấy tờ ra trình bày. Lúc sau, có mấy cậu du kích đeo súng tới bảo chị phải rời nhà ngay. Trong đêm, họ trục xuất bà ra khỏi làng, lại đi bộ vào Thanh Hóa.

Lần này tôi về, nói chuyện với mấy người bà con, có người còn nhớ cái 'đận' mẹ tôi đi bộ về rồi bị trục xuất đêm 30 Tết. Một người già cho biết sau đấy ông tôi được xem xét hạ thành phần nhờ mẹ tôi hồi ấy về trình bày với người ta.

Văn Công Hùng tự lái xe xuyên Việt: Thương nhớ miền quê ngoại - 1

Tác giả trước cổng làng Đa Giá

Giờ Quốc lộ 1A rất ngon, có dải phân cách, lái xe chủ yếu canh đúng tốc độ và không lấn vạch, còn lại lại là cứ thế bon bon. Hai anh em tôi thay nhau lái và ồ à với những nơi quen thuộc ngày xưa từng qua.

Nhưng cũng chẳng nhận ra những chỗ ngày xưa mình quen thuộc nữa.

Như cái đền Sòng, ngày xưa nó nằm ở đâu bên đường, đạp xe vẫn thấy. Nghe đồn đền này rất thiêng. Dân Thanh Hóa, Ninh Bình, rồi cả Hà Nội và các tỉnh tấp nập đến cầu cúng. Hình như ngày xưa ông trạng Quỳnh Thanh Hóa đến đây rồi bỡn bà chúa bằng câu chuyện "Tiền múa chúa cười" được truyền tụng mãi.

Kể xứ Thanh cũng lạ, có ông Trạng khôn vặt mà bao chuyện. Thế nhưng giờ, dù anh em tôi chú ý nhưng đi qua nó lúc nào không biết.

Cũng như thế là cái dốc Xây. Nó là ranh giới giữa Thanh Hóa với Ninh Bình. Gọi Dốc Xây là vì có cái dốc được xây bằng xi măng thôi.

Vùng đất với dãy Tam Điệp điệp trùng, nơi ngày xưa từng là một trọng địa của quân Tây Sơn trước khi ra tới Thăng Long dừng chân để luyện quân và chỉnh đốn quân ngũ, ăn tết sớm cũng là nơi Ngô Văn Sở chọn làm phòng tuyến để chờ quân triều đình.

Ngày xưa, tôi đạp xe một mình thường chọn nơi này nghỉ chân, uống nước từ cái bi đông đeo bên người, có khi ăn nhẹ lát cơm nắm muối vừng trước khi kẽo kẹt đạp tiếp. Giờ phía đi ra là cái hầm, đi vào thì đường cũ nhưng đã được làm to lên chứ không như ngày xưa chỉ một con đường ấy.

Văn Công Hùng tự lái xe xuyên Việt: Thương nhớ miền quê ngoại - 2

Đèo Tam Điệp

Lại nói Ninh Bình là xứ đá vôi trùng điệp. Mẹ tôi kể, cuối năm 1945 bà đi thoát ly, ban đầu là làm công nhân quân giới, nhiệm vụ chính là đi quét phân dơi để làm thuốc súng. Bà kể ăn ở trong hang, động, quét phân dơi làm thuốc súng, rồi làm lựu đạn. Gay go nhất là món thử lựu đạn. Rất thủ công và vì thế thương vong rất nhiều.

Sau này bà mất tôi cũng không kịp hỏi là cụ thể vùng bà ở ngày ấy là vùng nào. Tôi láng máng hình như là vùng Tam Điệp này. Rồi mới nhất đọc "Đi trốn" của nhà văn Bình Ca, người nguyên là phó chủ tịch tỉnh Ninh Bình thì tôi lại tự hỏi liệu có phải hồi đó bà ở trong vùng Tam Cốc Bích Động?

Nhưng cả dãy Tam Điệp này lẫn cái vùng Tam Cốc Bích Động ấy nó đẹp vô cùng. Cũng có thể nó liền nhau, vì đã bảo, cả Ninh Bình này là một cái hang động khổng lồ.

Năm 1965, khi Mỹ ném bom miền Bắc, trước khi diễn ra “Cuộc đụng đầu lịch sử”  3-4 tháng 4 năm 1965 tại Hàm Rồng, ba mẹ tôi mang 2 anh em tôi ra Ninh Bình gửi các bà dì chăm, chúng tôi cũng ở trong cái hang Luồn trong cái núi Dũng Đương có động Thiên Tôn nổi tiếng.

Rồi vào khu đền vua Đinh vua Lê cũng xung quanh toàn núi. Hùng vĩ và đẹp, nhưng quả là ở đây chỉ có yếu tố đẹp, chứ để làm thủ đô thì rất mong manh và bức bối. Nên các cụ dời đô là hết sức chính xác.

Văn Công Hùng tự lái xe xuyên Việt: Thương nhớ miền quê ngoại - 3

Bến Tràng An. Ảnh: Đào Minh Tiến

Cửa ngõ thị xã Ninh Bình xưa có cái cầu Lim rất đẹp. Tôi nhớ cứ tới cầu Lim là coi như đã tới nhà bà ngoại, dù còn cách khoảng 5 cây số nữa. Nếu cả nhà tôi về ngoại thì đi tàu, cái ga ở phía bên kia cầu Lim, gần núi Cánh Diều nổi tiếng có cái nhà máy nhiệt điện cũng nổi tiếng.

Nổi tiếng vì thời chiến tranh nhà máy này được 'ưu tiên' ném bom. Nổi tiếng vì nó ngốn than như thuồng luồng hít nước mía. Nổi tiếng vì lượng xỉ than nó thải ra, nghe nói nó đốt hết chừng 70%, còn lại thì thải. Ngoài số xỉ than chất đống, còn loại xỉ than nhỏ như đầu kim, sắc như kính vỡ bay lởn vởn trong gió.

Nổi tiếng còn vì cái ống khói rất cao luôn nhả khói đen kịt vân vân, tóm lại nó khiến toàn dân Ninh Bình thời ấy hầu như không dùng đồ trắng, nhất là áo. Chúng tôi xuống ga rồi đi bộ về nhà, qua cái cầu Lim ngày ấy. Giờ nó không còn, mà là cái cầu xi măng thì phải, tập trung nhìn đường kẻo lạc nên tôi không nhớ cụ thể nó ra làm sao?

Văn Công Hùng tự lái xe xuyên Việt: Thương nhớ miền quê ngoại - 4

Động Thiên Hà ở Ninh Bình.

Nhắc về ẩm thực, Ninh Bình có món dê danh bất hư truyền, đã đành rồi. Cậu tôi, một ông giáo dạy toán nhưng nghề chính là... nuôi dê. Ông là người đầu tiên vươn vào nền kinh tế thị trường ở Ninh Bình, có thể nói như thế. Thời bao cấp, đẻ 7 đứa con gái nhưng vẫn quyết tâm có con trai, và cái quyết tâm ấy đẻ ra đứa thứ 8 là trai thật.

Để nuôi từng ấy đứa con, ông làm mấy việc trong nhà. Một là rất nghiêm, nhà như trại lính. Ông rất dữ đòn, không giãi bày gì hết, kể cả khi con gái ông đã lớn. Hai là làm thêm, đầu tiên là sửa đài (radio). Chả biết ông học ở đâu mà cũng nhận về rồi chọc chọc ngoáy ngoáy và lấy tiền được. Nhưng không ăn thua, ông nuôi thêm dê.

Từ một đôi, tiến lên cả đàn. Từ nuôi để bán hơi cả con, ông tiến lên làm thịt bán. Từ làm thịt ông tiến lên mở cửa hàng. Giờ dê Ưu là một thương hiệu ở Ninh Bình. 8 đứa con ông đều thành đạt, đề huề, xinh đẹp, đã có dâu rể cháu chắt...

Nhưng ngoài dê, còn một món giờ thành thời trân nhưng nó sắp tuyệt chủng, bởi nó là đặc ân của trời gửi xuống cho con người, là rêu đá, là sự cộng sinh tuyệt vời giữa mưa với đá vôi...

(Còn một kỳ nữa)

Chia sẻ

Chia sẻ zalo Chia sẻ zalo Chia sẻ zalo Chia sẻ zalo

Văn Công Hùng

CLIP HOT