Khi nhâm nhi từng viên kẹo, đó không chỉ là thưởng thức vị ngon có được từ tinh túy của dừa mà còn là những giá trị nghệ tinh, cần cù, tỉ mẩn và sáng tạo của bà con xứ dừa.
Những món quà quê, lạ kỳ thay, luôn mang theo một thứ mùi vị của thời gian và ký ức. Hũ kẹo dừa mẹ gửi lên, vừa mở nắp đã dậy mùi thơm ngọt ngào quen thuộc. Thứ mùi hương béo bùi đó tuy chỉ thoảng qua cánh mũi, thật nhẹ và chóng phai, nhưng cũng đủ sức để khơi lên cả một miền ký ức tưởng chừng đã “chết ngạt” bởi hàng đống rối ren của tuổi trưởng thành.
Trong những ngày xưa cũ đó, có bóng dáng của Ngoại tôi. Có thể nói ông là một người “nghiện” kẹo dừa, dù tuổi đã cao, răng cũng chẳng còn khỏe để thưởng thức thứ kẹo dai dính này, nhưng một ngày mà không có vị ngọt thanh vương đầu lưỡi là ông lại bứt rứt. Rồi cái sự say mê ấy cũng truyền sang tôi, đứa cháu của ông.
Kẹo dừa giản đơn gắn liền với ký ức tuổi thơ ngọt ngào.
“Bến Tre nước ngọt sông dài, nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh...”
Nếu có dịp về Bến Tre, nghe người dân xứ dừa kể chuyện về những mảnh đời được bóng dừa chở che mà khôn lớn, bạn mới hiểu vì sao kẹo dừa, trong tâm thức của họ, không chỉ là một thứ quà ngọt của quê hương, mà còn là “hơi thở”, là biểu tượng của “thủ phủ dừa xanh”.
Nhờ sự bồi đắp của 4 nhánh sông Cửu Long gồm sông Tiền, sông Ba Lai, sông Cổ Chiên và sông Hàm Luông, điều kiện thổ nhưỡng nơi đây vô cùng thuận lợi để dừa theo dòng chảy mà lan nhanh khắp xứ. Từ đó, loài cây này cũng len lỏi vào nhịp sống của bà con nơi đây, trở thành biểu tượng của tỉnh nhà và cũng là nguồn cảm hứng cho món ăn dân dã là ký ức tuổi thơ của biết bao người, và cả của tôi.
Cây dừa trở thành biểu tượng của Bến Tre và là nguồn chất liệu để làm nên món kẹo dân dã.
Người Bến Tre truyền tai nhau, kẹo dừa do cụ Nguyễn Thị Ngọc, cư ngụ tại khu phố 1, thị trấn Mỏ Cày (Bến Tre), làm ra lần đầu tiên vào khoảng năm 1930. Cũng vì vậy mà lúc đó kẹo dừa có cái tên đầu tiên là “kẹo Mỏ Cày”. Từ ấy, người dân truyền miệng bày nhau cách làm món kẹo mềm dẻo, ngọt thơm béo ngậy.
Đến khoảng năm 1970, bà Nguyễn Thị Vinh thành lập cơ sở sản xuất kẹo dừa Thanh Long, cơ sở đầu tiên ở thị xã Bến Tre, thương hiệu kẹo dừa đầu tiên của Bến Tre từ đó ra đời. Lúc đầu, bà tận dụng nguồn dừa phong phú trên mảnh đất này làm kẹo bằng thủ công với các phương tiện sản xuất thô sơ. Về sau, sản phẩm “Kẹo dừa Thanh Long” của bà được mọi người yêu thích, nên bà đã cải tiến công nghệ về máy móc, trang thiết bị sản xuất kẹo nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ tăng cao.
Năm 1989, bà Nguyễn Thị Vinh quyết định sang Úc để đoàn tụ gia đình, trao lại cơ sở sản xuất cho em trai mình là ông Sáu Tảo. Gia đình ông Tảo đã có nhiều bước cải tiến để mở rộng quy mô sản xuất, kẹo dừa Thanh Long dần trở thành một trong những thương hiệu kẹo dừa nổi tiếng nhất tỉnh Bến Tre. Còn mô hình chế biến kẹo dừa theo dây chuyền được học tập và nhân rộng để tạo nền tảng cho ngành sản xuất kẹo dừa như ngày nay.
Kẹo dừa Thanh Long nức tiếng.
“Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo, gái Mỏ Cày vừa khéo lại vừa ngoan...”
Để làm ra một mẻ kẹo dừa ngon cũng đòi hỏi lắm công phu. Theo như lời mẹ tôi kể, ngày xưa, cứ hễ Tết đến là mọi người lại rủ nhau đi hái dừa, phơi củi, mua đường. Chuẩn bị đỏ lửa để làm bánh mứt Tết, và chỉ cần bà Ngoại sên mẻ kẹo dừa trong bếp là tụi nhỏ trong xóm cứ láo nháo, háo hức chờ được ăn.
Những viên kẹo vuông dẹp thành hình, được gói khéo trong lớp giấy mỏng thành hình vuông vức. Hễ mỗi lần gói kẹo là bà lại gọi mẹ, gọi các dì vào bếp rồi thi xem ai gói đẹp hơn, nhanh hơn. Đó là kẹo dừa được làm trong gia đình, không chỉ là thứ quà vặt quen thuộc, đó là sự thể hiện nếp sống, sự khéo léo của người phụ nữ Bến Tre ngày ấy.
Các chị, các cô làm kẹo dừa tại xưởng kẹo Chái Bếp Bến Tre. Mỗi người tỉ mỉ chăm chút cho từng công đoạn, người cắt kẹo, người đóng gói.
Các du khách nước ngoài hiếu kỳ về cách làm kẹo dừa. Họ được nhân viên tại xưởng hướng dẫn từng công đoạn. Trong ảnh, một chị nhân viên đang chỉ cách gói kẹo dừa cho khách.
Bà Ngoại cũng truyền nghề cho các dì và mẹ. Để kẹo dừa ngon thì khâu chọn dừa cũng phải chuẩn chỉnh. Trái khô vừa phải, lớp vỏ rám vàng, cơm dừa trắng dày thì mới cho ra nước cốt có độ ngọt thanh béo ngậy và không hôi dầu. Thóc nếp dùng để nấu mạch nha phải chọn loại nếp tốt, hạt no tròn chín đều và được tưới bằng nước mưa sạch trong để cho ra mạch nha ngọt thanh tự nhiên, độ dẻo quánh đặc trưng. Đường nấu kẹo cũng phải là loại đường có màu vàng tươi để kẹo sau khi nấu có màu đặc trưng đẹp mắt.
Công đoạn khuấy kẹo cũng phải khéo, khuấy liên tục đều tay để kẹo không bị cháy và đều màu. Việc kiểm soát nhiệt độ cũng cực kỳ quan trọng. Vì xưa chỉ có bếp củi nên người nấu kẹo phải biết cách nhìn lửa và canh thời gian thích hợp thì kẹo mới ngon và có độ dẻo. Khi phần nước cốt cô đặc và chuyển màu, hỗn hợp nóng dẻo được giàn lên khuôn dài bôi trơn bằng dầu dừa để chống dính, đến khi kẹo nguội thì lấy dao xắt rồi đóng gói.
Mãi về sau này, khi có dịp về lại Bến Tre nhân chuyến thực tập nghề, tôi mới hiểu để làm ra một mẻ kẹo dừa thủ công tốn biết bao giọt mồ hôi và công sức là như thế nào.
Nhưng trong hôm nay, khi công nghệ đã tân tiến hơn, quy trình sản xuất kẹo dừa tại các nhà máy đã phần nào tinh gọn, nhanh và chuyên nghiệp hơn. Nhờ đó, người ta đã làm ra nhiều viên kẹo dừa đầy sáng tạo, mang đến trải nghiệm vị giác mới lạ như kẹo dừa hương sầu riêng, đậu phộng, lá dứa, cacao... làm phong phú mùi vị của một “tượng đài” ẩm thực Bến Tre.
Kẹo dừa hôm nay là sự cách tân thú vị, kết hợp nhiều hương vị mới để nâng tầm chất ngon của kẹo dừa Bến Tre.
Trong mắt ông Ngoại tôi, kẹo dừa đúng nghĩa là kẹo dừa Bến Tre. Khi nhâm nhi từng viên kẹo, đó không chỉ là thưởng thức vị ngon có được từ tinh túy của dừa mà còn là những giá trị nghệ tinh, cần cù, tỉ mẩn và sáng tạo của bà con xứ dừa. Ăn kẹo dừa, uống ngụm trà nóng, mọi thứ bình dị mà hấp dẫn vô cùng! Càng ăn lại càng ghiền thêm...
Ở quê Ngoại tôi, Tết đến là nhà nào cũng có bàn tiếp khách, khay mứt giản dị với mấy vị bánh kẹo quen, cùng với nước trà quê thơm để “mở đầu câu chuyện”, gắn kết biết bao mối thân tình. Để rồi lớn lên cùng bàn trà nước của ông, được ông thưởng viên kẹo dừa ngọt, uống ngụm trà ấm ông pha, mọi thứ tạo nên cảm giác đặc biệt khó tả. Ôi chao những ngày xưa cũ đó, biết bao giờ mới được trở lại?
Với diện tích gần 80.000 ha, từ lâu, Bến Tre được xem là cái nôi, là “thủ phủ” của ngành dừa Việt Nam. Nơi cây dừa không chỉ làm nên thương hiệu vùng đất, là biểu tượng văn hóa với “Dáng đứng Bến Tre” hiên ngang, vững chãi trong mưa bom, bão đạn một thời mà còn đóng vai trò trụ cột trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp địa phương. Tuy vậy, để cây dừa vươn xa hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, ngành dừa Bến Tre cần một bước chuyển mình bền vững. Giữ dừa là câu chuyện không dễ dàng. Vụ mùa mất giá, lại thêm sâu bệnh hại dừa, hay phải chống chọi với từng đợt xâm nhập mặn mỗi năm khiến bao nhà vườn nản chí, chẳng còn thiết tha nhiều với giống cây trồng của quê hương, mà chuyển mình canh tác những giống cây mới, ấp ủ hy vọng phát triển kinh tế của gia đình. Có lẽ vì thế, khi kẹo dừa chính thức được công nhận là Di sản phi vật thể quốc gia, đó không chỉ còn là chuyện vui, mà đâu đó còn xen kẽ những nỗi buồn, nỗi trăn trở của người trồng dừa và làm kẹo dừa. Theo ThS Nguyễn Võ Nhất Duy, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bến Tre, trên thế giới, nông nghiệp không còn chỉ là chuyện của sản lượng. Khi các thị trường lớn đều siết chặt về tiêu chuẩn chất lượng, lao động và phát thải carbon, ngành dừa Bến Tre cần phải hướng đến hình mẫu nông nghiệp xanh, hiện đại, ứng dụng công nghệ để làm mới quy trình trồng dừa và sản xuất các sản phẩm từ dừa. Từ đó, trở thành một minh chứng sống động cho khả năng “xanh hóa” nông nghiệp Việt Nam trong thời đại hội nhập. |