Dọc ngang miền sông nước ghé thăm xưởng đóng thuyền bên cồn
Mênh mang giữa dòng Tiền Giang, Cồn Lân mở ra thế giới đậm chất miệt vườn. Nơi đây, những người thợ đóng thuyền vẫn miệt mài giữ nghề truyền thống, tỉ mẩn làm nên chiếc xuồng ba lá – phương tiện chuyên chở khách, gói trọn bao câu chuyện và ký ức miền sông nước.

Giữa dòng Tiền giang, cù lao Thới Sơn, bà con thường gọi Cồn Lân, một trong 4 cồn đặt tên theo tứ linh Long – Lân – Quy – Phụng, 4 mùa xanh mơn vườn cây trĩu quả.

Con đường quê uốn lượn quanh co, băng qua hàng rào cây rợp mát, khi thì dâm bụt, sao nhái, bông giấy, lúc hàng dừa nước lòa xòa soi bóng, hay đơn sơ chỉ là bụi cỏ ven đường làm ranh giới.

Giữa cảnh quê yên bình ấy, người thợ đóng thuyền vẫn miệt mài bên tiếng cưa, tiếng đục để giữ cho tiếng máy ghe luôn giòn, xuồng ghe rẽ sóng và vẽ lên đôi mắt trên mũi thuyền thêm thắm đỏ.

Dãi dầu bao mùa mưa nắng, họ vẫn giữ lửa nghề truyền thống của cha ông tự bao đời, như lưu giữ linh hồn sông nước và ký ức quê hương miền Tây trong từng thớ gỗ.

Không chỉ làm ra những phương tiện di chuyển, mà còn gìn giữ một phần ký ức, một phần văn hóa của quê hương sông nước bên những con đò đưa khách sang sông.
Dọc theo những con rạch nhỏ, rạch to ngoằn ngoèo đan xen như mắc cửi miền ĐBSCL, giữa tiếng gió sông rì rào và mùi gỗ dầu, gỗ sao thoảng trong không khí, những người thợ mộc vẫn âm thầm, cặm cụi công việc được xem như một phần hồn cốt của vùng đất này – nghề đóng ghe, thuyền gỗ truyền thống.
Trong khi nhiều nghề xưa vắng bóng, thì ở đây, nghề đóng ghe vẫn giữ được hơi ấm, như ngọn lửa nghen ngúm, âm ỉ cháy mãi không chịu tàn trước cơn gió bụi của thời gian; để giữ cho nhịp chèo khoát nhẹ, tiếng ghe máy lạch bạch ngược xuôi, hòa quyện cùng tiếng cười nói rộn rã của người con gái miệt vườn sông nước.
Dù ngày nay, hình ảnh ấy không còn dày đặc xuồng ghe trên bến dưới thuyền như những ngày xưa cũ, nhưng đâu đó, bên những xưởng nhỏ ven sông, vẫn đó đôi bàn tay chai sạn ngày đêm gìn giữ lấy nghề.

Máy móc hiện đại hỗ trợ hiệu quả, giúp thợ thuyền vơi bớt nhọc nhằn, nhưng những đường đục, nét chạm khắc trên thân ghe vẫn vẹn nguyên hồn cốt nghề cha ông.

Luôn tay với hệ thống máy liên hợp, nở nụ cười hiền chú Tư thổ lộ: “Tui theo nghề từ hồi mười lăm tuổi. Hồi đó cha làm, rồi tới tui. Giờ con cháu giờ ít đứa chịu học, nhưng tui vẫn làm, miễn còn sức.”
Trong tiếng cưa rọt rẹt, tiếng đục lách cách nhịp nhàng bên bờ rạch nhỏ trước khi đổ ra dòng sông Tiền mênh mông, ngút ngàn ở Cồn Lân (Cù lao Thới Sơn, Tiền Giang cũ), chú Tư Lành tuổi cũng đã hòm hòm lục tuần, nhưng trông vẫn tráng kiện như trai 18 tập gym, lúc nào cũng nở nụ cười vui, hồn hậu.
Quyệt nhẹ mồ hôi trán, đưa tay chỉ về chiếc xuồng tam bản áng chừng ngoài 3 thước đã dần nên hình, những tấm ván gỗ dầu vừa được uốn cong, ghép khít, chuẩn bị bít trét nhựa mù u, chú nói: “Làm cái ghe đâu có đơn giản. Phải chọn đúng gỗ, uốn cho đều, trét cho kín, sơn cho khéo. Sai lệch một chút là ghe vô nước liền.”
Tính ra đóng gỗ mắc hơn gấp đôi composit, giá phải hơn chục triệu, nhưng khách Tây họ lại khoái ngồi mấy con thuyền gỗ len lỏi dưới tán dừa lòa xòa bóng mát hơn là xuồng composit hay ca nô nhựa, nghề này tuy không giàu nhưng tính ra, mình cứ lai rai đóng phục vụ du khách, không lo hết việc, chú Tư khoe liền.

Giữ nghề không chỉ là giữ kế sinh nhai, mà là giữ linh hồn của quê hương, của một nền văn hóa sông nước đã gắn bó với người dân miền Tây qua bao thế hệ.
Công việc của họ không chỉ đòi hỏi kỹ thuật, mà còn là sự kiên nhẫn, sức khỏe và cả niềm tin. Người thợ mộc phải thuộc lòng từng loại gỗ, biết cách “nghe tiếng” khi đục, cảm nhận độ cong khi ghép. Họ làm việc trong tiếng gió, tiếng nước, ngày nắng cháy da, đêm về vẫn nghe mùi nhựa mù u vương trên lưng áo.
Nhưng đổi lại, khi chiếc ghe hoàn thiện, khi được hạ thủy và lướt nhẹ trên sông, người thợ lại thấy lòng mình thanh thản. “Thấy ghe mình bon bon rẽ sóng là vui rồi. Mấy chục năm cực khổ làm nghề, ấy vậy mà vui,” chú Tư Lành nói, giọng pha chút tự hào.

Ghe thuyền sông nước Nam bộ đặc điểm chung là mắt tròn, tròng đen, nhãn trắng trên nền đỏ mang ghe, trang trí nhiều kiểu dáng khác nhau với đường viền trắng bao quanh.
Đằng sau mỗi chiếc ghe không chỉ là công sức, mà còn ẩn chứa tín ngưỡng và nghi thức tâm linh lâu đời của cư dân miền sông nước. Trước khi ghe được hạ thủy, người ta phải làm lễ “khai quang điểm nhãn” – vẽ đôi mắt ở mũi ghe. Mắt ghe thuyền cũng thường được trang trí lại sau một thời gian sử dụng.
Theo quan niệm dân gian, chiếc ghe cũng như con người, phải có đôi mắt mới “thấy đường”, mới tránh được nguy hiểm khi xuôi ngược. Đôi mắt ấy không chỉ để trang trí mà còn là linh hồn, là niềm tin gửi gắm của người dân miền sông nước.

Cũng chính vì vậy, những đôi mắt trên mũi ghe trở thành dấu hiệu nhận diện độc đáo của văn hóa miền Tây – vừa linh thiêng, vừa gần gũi.
Ở mỗi vùng, đôi mắt ghe lại mang hình dáng khác nhau, như cách mỗi con người có một cá tính riêng. Như ở Cần Thơ, mắt ghe được vẽ to tròn, đen nhánh, thể hiện sự mạnh mẽ, dũng cảm. Ở Kiên Giang, đôi mắt lại trông hiền hòa, gần nhau hơn, phản ánh cuộc sống gắn bó với biển khơi.
Còn ở Cà Mau, nơi ghe nhỏ, xuồng nhanh, mắt được vẽ nhọn và sắc, vừa tinh anh vừa linh hoạt. Con mắt ghe Tiền giang xứ này, thường được vẽ to tròn nét duyên, phối cùng màu đỏ ở mũi ghe tượng trưng cho may mắn, xua tà khí, còn màu xanh dương ở lườn ghe gợi sự bình an và hòa hợp với sông nước.
Sau khi ghe đóng hoàn chỉnh, trước khi hạ thủy là nghi thức khai quan điểm nhãn. Việc này thường được giao cho thợ cả hoặc thầy cúng thực hiện trong ngày tốt.
Còn nữa, sau khi đôi mắt hoàn tất, không ai được tùy tiện chạm vào mũi ghe, vì người ta tin rằng điều đó có thể “làm mờ mắt” chiếc thuyền, ảnh hưởng đến vận may của chủ, chú Tư chắc nịch nói.

Để một chiếc ghe hoàn chỉnh, người thợ phải trải qua hàng chục công đoạn. Từ việc chọn gỗ, đo đạc sống ghe, uốn ván, ghép mộng, bắt ốc cho đến trét nhựa, sơn phủ v.v..

Tất cả đều đòi hỏi sự tỉ mỉ. Ví như chiếc ghe bầu loại lớn, dùng để chở hàng, tụi này đóng ròng rã có khi mất vài tháng mới hoàn thành, anh Thành cho hay.
Ở mỗi khâu, người thợ đều gửi gắm tâm huyết của mình. “Nhiều khi làm hoài, ngắm nghía chỉnh sửa từng chút một, nhưng làm nghề này không được gấp. Gấp là hư!,” anh Ba Thành, thợ đóng thuyền lành nghề, quê ở An Giang nói: “Cực thì cực thiệt, nhưng làm nghề này phải có lòng. Nghề của ông bà mình mà.”

Họ không chỉ đo, cưa, đóng... mà còn gửi gắm vào đó niềm thương của người con miền sông nước.
Với người xứ này, chiếc ghe không chỉ là phương tiện, mà còn là “ngôi nhà di động”. Trên ghe, người ta nấu cơm, ngủ nghỉ, chở hàng, thậm chí sinh con, lớn lên và già đi cùng dòng nước. Vì thế, khi làm ghe, người thợ cũng như tạo nên một mái nhà cho người khác.
Ngày nay, nhiều loại phương tiện như xuồng composite, canô, tàu sắt dần phổ biến, khiến nghề đóng ghe gỗ đứng trước nguy cơ mai một. Không ít xưởng nhỏ đã đóng cửa, thợ giỏi chuyển nghề hoặc lên thành phố chạy xe công nghệ kiếm kế sinh nhai.
Nhưng vẫn có những người kiên trì giữ nghề, như anh Ba, chú Tư, ông Bảy – người thợ cả đã hơn bốn mươi năm gắn bó với hồn gỗ và sông nước.

“Giờ tụi nhỏ ít ai học, làm cực mà không lời. Nhưng còn người đặt, tôi còn làm. Nghề này mà mất đi, coi như mất luôn cái hồn cốt truyền thống quê mình”, ông Bảy nói.
Chính nhờ những người như ông Bảy mà tiếng cưa, tiếng đục vẫn vang lên nơi bến sông, như nhịp đập nối dài của truyền thống văn hóa. Họ là những “người giữ lửa”, giữ không chỉ ngọn lửa nghề mà còn giữ lại cả hồn cốt sông nước trong từng đường vân thớ gỗ, nơi từng chiếc ghe, con thuyền ra đời.
Không chỉ dừng lại ở giá trị vật chất, nghề đóng ghe còn phản chiếu tinh thần lao động sáng tạo của người dân Nam Bộ – cần cù, linh hoạt và kiên cường. Giữa những con nước lớn, nước ròng, họ vẫn bám nghề, vẫn tự tay tạo nên những con thuyền như con nước chở nặng phù sa, chở niềm tin lan tỏa khắp mọi miền.
Và khi tiếng máy đuôi tôm rộn ràng vang lên, đó không chỉ là âm thanh của công việc, mà còn là tiếng nhịp đập của miền quê hương sông nước – hối hả mà bình yên, giản dị mà sâu sắc.

Vắt mình uốn cong duyên dáng qua cù lao Thới Sơn là cầu Rạch Miễu 2 (2025) vừa khánh thành đưa vào hoạt động, gánh bớt lưu lượng giao thông cùng người chị Rạch Miễu 1 (2009).

Phút tếu táo đùa vui cùng những người thợ - những người giữ lửa trên sóng nước hồn quê cùng nghề đóng ghe thuyền mộc mạc.
Mai này, dù cho đường xá cùng những cây cầu mới mọc lên, khi tàu sắt hiện đại nối dài nhịp sống; người ta vẫn nghe đâu đó tiếng máy ghe cũ, tiếng gõ búa bên bờ kinh rạch, và có thể thấy cả hình bóng người thợ già cúi mình bên tấm ván gỗ, truyền nghề cho lớp trẻ.
Những người thợ bình dị, khiêm nhường đang âm thầm thắp lên ngọn lửa giữ hồn sông nước, để thương thuyền giữ nhịp ngược xuôi cùng bao ký ức, để giữ mãi ngọn lửa nghề truyền thống như cha ông đã vẽ nên những con mắt nơi mũi thuyền, nhuộm màu phong sương.


